Bản án 57/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

 BẢN ÁN 57/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 198/2019/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 2000 Địa chỉ: Thôn 6, xã T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn 6, xã T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng Chị L có mặt, anh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/7/2019 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Phạm Văn T quen biết nhau khoảng 03 tháng thì tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý, chung sống tự nguyện. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Ptỉnh Hà Nam ngày 12/3/2018. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc. Chị L trình bày anh T làm nghề tự do nên thu nhập không ổn định, thường xuyên vắng nhà, không quan tâm chăm sóc vợ con. Về kinh tế anh T là người quản lý, tự chi tiêu trong gia đình. Từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã và có đánh đập nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên từ tháng 4/2019 đến nay vợ chồng đã sống ly thân không còn quan tâm chăm sóc nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Phạm Văn T.

Về con chung: Chị L trình bày quá trình chung sống chị và anh Phạm Văn T có một con chung là Phạm Quang K, sinh ngày 19/8/2018. Nay ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung đến khi đủ 18 tuổi và yêu cầu anh Phạm Văn T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L trình bày quá trình chung sống chị và anh Phạm Văn T không tạo lập được khối tài sản chung nào, không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 03/9/2019 và lời khai khác tại Tòa án, bị đơn anh Phạm Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian tìm hiểu, chung sống, đăng ký kết hôn anh T thừa nhận như chị Nguyễn Thị L trình bày là đúng. Quá trình chung sống anh T thừa nhận do công việc của anh làm nghề tự do, thường đi làm xa nhiều ngày mới về nhà nên thiếu sự quan tâm chăm sóc vợ con. Vợ chồng cũng nhiều lần cãi vã nhau, có đánh đập nhau. Chị L thường xuyên chửi bới anh T, không tôn trọng nhau, không cùng quan điểm sống. Do mâu thuẫn đã trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 3/2019 đến nay phận ai nấy sống không quan tâm chăm sóc nhau, tình cảm vợ chồng không còn. Nay chị L yêu cầu ly hôn anh T cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh T thừa nhận anh và chị Nguyễn Thị L có một con chung tên là Phạm Quang K, sinh ngày 19/8/2018. Nay ly hôn vì con còn nhỏ nên anh đồng ý giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh T đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh T trình bày anh và chị Nguyễn Thị L không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 10/10/2019 nhưng không được. Lý do chị L có mặt, có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải vụ án nữa, anh T có đơn yêu cầu vắng mặt tại phiên họp về chứng cứ và hòa giải.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn giữ nguyên ý kiến của mình, bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên không có thay đổi gì về các nội dung đã trình bày trước đây tại Tòa án.

Kết thúc phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Văn T được ly hôn, về con chung cần giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, anh T cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét giải quyết. Về án phí cần buộc chị L phải chịu 300.000 án phí dân sự sơ thẩm, anh T chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Phạm Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Văn T chung sống với nhau từ tháng 3/2018, hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu khoảng 03 tháng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và được hai bên gia đình đồng ý. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Ptỉnh Hà Nam ngày 12/3/2018.

Đây là quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống thời gian chưa được bao lâu thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Cả chị L và anh T đều thừa nhận vợ chồng không hợp nhau về tính tình, tìm cảm, công việc. Anh T thường xuyên vắng nhà nên không có thời gian chăm sóc vợ con. Vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, có đánh đập nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ tháng 3/2019 đến nay vợ chồng đã sống ly thân, phận ai nấy sống không quan tâm chăm sóc nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị L yêu cầu ly hôn, anh T cũng đồng ý. Vì vậy cần căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị L và anh T được ly hôn là có căn cứ và đúng pháp luật.

- Về con chung: Căn cứ lời khai của chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Văn T, giấy khai sinh chị L giao nộp cho Tòa án thì quá trình chung sống hai người có một con chung tên là Phạm Quang K, sinh ngày 19/8/2018. Nay ly hôn chị L và anh T đều thống nhất giao con chung cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh T đồng ý cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi. Xét hiện nay con chung còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi cần sự chăm sóc của người mẹ, chị L đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con, anh T đồng ý giao con và đồng ý cấp dưỡng. Để đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức của con, căn cứ vào các điều 70, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần giao con là Phạm Quang K, sinh ngày 19/8/2018 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi là có căn cứ và đúng pháp luật.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Văn T thống nhất trình bày không có tài sản chung nên không có yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không đề cập đến.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Văn T thống nhất trình bày không có nợ chung nên không có yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[3] Về án phí: Đây là vụ án dân sự không có giá ngạch, cần buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn anh Phạm Văn T chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 70, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L đối với anh Phạm Văn T về việc “Ly hôn”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L và anh Phạm Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Quang K, sinh ngày 19/8/2018 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, anh Phạm Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng, cấp dưỡng hàng tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.

“Quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình”.

“Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

3. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị L đã nộp tại biên lai nộp tiền số AA/2016/0013120 ngày 03/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Anh Phạm Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2015.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 57/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:57/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về