Bản án 57/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 57/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2018/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2018/QĐXX-ST ngày 29 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Q, sinh năm 1985

Địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Duy Th, sinh năm 1983

Đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

Hiện đang chấp hành án tại: Trại giam Nam Hà; địa chỉ: Thôn Tân Lang, xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.

 (Tại phiên toà có mặt chị Quỳnh; anh Thành có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn là chị Đỗ Thị Quỳnh trình bày:

Chị kết hôn với anh Nguyễn Duy Th do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 30/8/2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận đến năm 2010 thì chị phát hiện anh Th nghiện ma tuý. Chị và gia đình đã khuyên ngăn, động viên nhiều nhưng anh Th không từ bỏ được ma tuý và thường xuyên gây sự, chửi bới chị. Đến tháng 02/2018 anh Th bị bắt đi tù vì tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và hiện anh Th đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Nay chị thấy không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với anh Th được nữa nên chị xin ly hôn anh Th.

Chị và anh Th có 02 con chung là Nguyễn Thuỷ T, sinh ngày 27/01/2007 và Nguyễn Đỗ Gia Kh, sinh ngày 23/02/2018. Do anh Th đang chấp hành án phạt tù nên sau khi ly hôn, chị xin trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh Th phải góp cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Về tài sản: Chị và anh Th không có tài sản chung, không có khoản nợ chung nào nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Duy Th trong biên bản lấy lời khai và đơn xin vắng mặt đề ngày 24/10/2018 có xác nhận của Trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam đã trình bày về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn đúng như chị Q khai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do anh nghiện ma tuý. Tháng02/2018 anh bị bắt đi tù về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Nay chị Q xin ly hôn, anh nhất trí ly hôn với chị Q.

Anh Th xác nhận anh và chị Q có 02 con chung như chị Q đã khai. Sau khi ly hôn, anh nhất trí để chị Q trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung theo yêu cầu của chị Q do anh đang chấp hành án phạt tù nên không có điều kiện nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung, nợ chung giữa anh và chị Q không có nên anh không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến tại phiên toà: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt, do vậy Viện kiểm sát không đưa ra quan điểm về việc chấp hành pháp luật tại phiên toà của bị đơn.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; về quan hệ hôn nhân cần xử cho chị Q được ly hôn anh Th; về quan hệ con chung cần giao hai con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Q không yêu cầu anh Th phải góp cấp dưỡng nuôi hai con chung; về quan hệ tài sản không đặt ra giải quyết. Chị Q phải chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Duy Th đã có đơn xin giải quyết vắng mặt tại phiên toà đề ngày 24/10/2018. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Q và anh Nguyễn Duy Th xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình đăng ký kết hôn vào ngày 30/8/2003 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, theo chị Q vợ chồng chung sống hoà thuận đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh Th nghiện ma tuý. Anh Th cũng xác nhận nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do anh nghiện ma tuý và anh nhất trí ly hôn với chị Q. Xét mâu thuẫn giữa chị Q, anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của chị Q, xử cho chị Q được ly hôn anh Th là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Xét yêu cầu về nuôi dưỡng con chung của chị Q, thấy: Hiện nay hai con chung đang ở ổn định cùng chị Q; anh Th cũng nhất trí để chị Q trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung do anh đang chấp hành án phạt tù không có điều kiện nuôi con. Do đó, cần giao cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung theo yêu cầu của chị Q là phù hợp.

Về quan hệ tài sản: Chị Q và anh Th đều không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

[3] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị Q được ly hôn anh Nguyễn Duy Th.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho chị Đỗ Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Thuỷ T, sinh ngày 27/01/2007 và Nguyễn Đỗ Gia Kh, sinh ngày 23/02/2018. Chị Q không yêu cầu anh Th phải góp cấp dưỡng nuôi hai con chung. Anh Th được quyền thăm nom hai con chung.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Quỳnh đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003704 ngày 20/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ thành tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Duy Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:57/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về