Bản án 57/2017/HSST ngày 30/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 57/2017/HSST NGÀY 30/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2017. Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2017/HSST ngày 21tháng 7 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2017/HSST ngày 15 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRƯƠNG THẾ A, sinh ngày 10/6/1994;

Hộ khẩu thường trú: Tổ B, phường NX, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở: như trên;

Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Nùng; Trình độ học vấn: 11/12 phổ thông;

Con ông: Trương Xuân Đ, sinh năm 1970; Con bà: Nông Thị D, sinh năm 1969, cùng trú tại: Tổ B, phường NX, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng;

Bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con út trong gia đình;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt vào nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Cao Bằng từ ngày 14/4/2017; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong Hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 9 giờ 30 phút ngày 14 tháng 04 năm 2017, tại khu vực đường tròn ngã tư thuộc tổ B, phường SB, thành phố CB, tổ công tác thuộc đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy, môi trường Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đang tiến hành tuần tra thì bắt quả tang Trương Thế A (Sinh ngày 10/6/1994; trú tại Tổ B, phường  NX, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói Hêrôin có trọng lƣợng là 0,11gam (Không phẩy mười một gam, thu giữ bên trong túi quần bên trái đằng trước chiếc quần A đang mặc; 01 điện thoại di động màu đen hiệu MASSTEL đã qua sử dụng; 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam thu giữ trong túi quần trước bên trái của A.

Ngày 18 tháng 5 năm 2017, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 71 đối với vật chứng vụ án. Tại bản kết luận giám định số 92/GĐMT ngày 31 tháng 5 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy, loại ma túy: Heroine.

Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT:20, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ".

Quá trình điều tra, Trương Thế A đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Do bản thân sử dụng ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 14 tháng 4 năm 2017, A ra khu vực Bến xe khách thành phố CB để tìm mua Hêrôin về sử dụng.

Tại đây, A gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi (Không biết tên và địa chỉ), người này hỏi A có mua Hêrôin không, A trả lời là có và hỏi một gói bao nhiêu tiền. Người  đàn ông này nói một gói giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). A đồng ý mua và lấy tiền ra đưa cho người này 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Người đàn ông cầm lấy tiền rồi đi đâu đó khoảng 05 phút sau quay lại đƣa cho A 01 gói Hêrôin được gói bằng giấy viết màu trắng. Sau khi trao đổi xong, người đàn ông đi đâu không biết, còn A cất giấu gói Hêrôin vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi ra khu vực ngã tư đường tròn thuộc tổ B, phường SB, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng tìm chỗ sử dụng thì bị công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi nói trên của Trƣơng Thế A đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đã ra cáo trạng số: 50/KSĐT– MT ngày 20/7/2017 truy tố bị cáo Trương Thế A ra trước Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên; Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa cùng phù hợp với các nội dung khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và cùng phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập về thời gian, địa điểm, hành vi mà bị cáo đã thực hiện, cũng như tang vật đã đƣợc thu giữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng sau phần xét hỏi và tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm: Truy tố bị cáo Trƣơng Thế A về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015; điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 về việc áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội, mức hình phạt đối với bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Tang vật trong vụ án được xác định là Heroine; sau giám định cơ quan giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết; Về chiếc điện thoại di động hiệu Masstel và khoản tiền 400.000đ, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, vì vậy cần trả cho bị cáo để quản lý sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến hay khiếu nại gì về các hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và của Tòa án.

Bị cáo thực hiện quyền nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bản thân bị cáo rất ăn năn, hối hận, bị cáo biết mình đã sai và mong hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật với mức án thấp nhất để cho bị cáo được sớm trở về hòa nhập cộng đồng, làm người công dân lương thiện, có ích cho xã hội sau này.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý kiến của kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa bị cáo Trương Thế A thừa nhận hành vi: Do bản thân sử dụng ma túy nên khoảng 08 giờ, ngày 14 tháng 4 năm 2017, A ra khu vực bến xe khách thành phố Cao Bằng để tìm mua Hêrôin về sử dụng. Tại đây, A gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi (không biết tên và địa chỉ), người này hỏi A có mua Hêrôin không, A trả lời là có và hỏi một gói bao nhiêu tiền. Người đàn ông này nói một gói giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). A đồng ý mua và lấy tiền ra đưa cho người này 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Người đàn ông cầm lấy tiền rồi đi đâu đó khoảng 05 phút sau quay lại đưa cho A 01 gói Hêrôin được gói bằng giấy viết màu trắng. Sau khi trao đổi xong, người đàn ông đi đâu không biết, còn A cất giấu gói Hêrôin vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi ra khu vực ngã tư đường tròn thuộc tổ B, phường SB, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng tìm chỗ sử dụng thì bị công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Xét lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập được, đó là: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Cao Bằng lập hồi 09h30 ngày 14/4/2017;

Biên bản mở niêm phong tang vật cân xác định trọng lượng tịnh lấy mẫu giám định và niêm phong lại do công an thành phố Cao Bằng lập hồi 11h40 ngày 14/4/2017 và Kết luận giám định số 92/GĐMT ngày 31/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng; qua đó thể hiện rõ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Việc viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo theo như cáo trạng số: 50/KSĐT-MT ngày 20/7/2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo A là một công dân có đầy đủ năng lực nhận thức, năng lực hành vi, có trình độ văn hoá phổ thông lớp 12/12, sống nơi tập trung đông dân cư, có đủ điều kiện về thông tin, văn hoá xã hội và pháp luật, nên bị cáo hoàn toàn biết Heroine là một dạng ma tuý độc dược gây nghiện Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán, sử dụng... nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy của mình, phó mặc mọi hậu quả sảy ra đối với xã hội, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và mang tính nghiêm trọng, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, tiếp tay cho tệ nạn xã hội và là mầm mống phát sinh các loại tội phạm nguy hiểm khác; bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là hoàn toàn cần thiết và đúng quy định của pháp luật.

Xét nhân thân của bị cáo thấy rằng, bị cáo là một người nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, hành vi phạm tội thuộc trường hợp lần đầu và ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, vậy hoàn toàn đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, đồng thời theo hướng dẫn Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 hướng dẫn về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015, thì căn cứ điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015; điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015, hành vi phạm tội của Trương Thế A đƣợc quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.Tuy nhiên khi lượng hình cần đánh giá đúng về tính chất, hậu quả và hành vi nguy hiểm của bị cáo gây ra đối với xã hội để áp dụng hình phạt là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời nhất định, như vậy mới tương xứng với tính chất, hậu quả do hành vi nguy hiểm mà bị cáo đã gây ra, đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm về ma tuý nói riêng.

Xét bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ xung là phạt tiền; tuy nhiên xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo, không việc làm thu nhập ổn định, nên việc áp dụng phạt tiền đối với bị cáo là không phù hợp.

Về vật chứng: Heroine sau giám định cơ quan giám định không hoàn lại nên không đặt vấn đề xem xét xử lý; về chiếc điện thoại di động hiệu Masstel màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng và khoản tiền 400.000đ xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, vì vậy cần trả cho bị cáo để quản lý sử dụng.

Ngoài trách nhiệm hình sự. Bị cáo sẽ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố: Bị cáo Trƣơng Thế A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Thế A 15(Mười năm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày 14/4/2017.

2. Về tài sản: Căn cứ Điều 74, 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 41 Bộ luật hình sự.

Xử trả cho Trương Thế A (Trú tại: Tổ B, phường NX, thành phố CB):

- 01 điện thoại di động hiệu Masstel màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng (Niêm phong trong phong bì, mặt ngoài ghi vụ: Trương Thế A, sinh năm 1994; HKTT: Tổ B, phường NX, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng. Hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy – Bắt ngày 14/4/2017).

- Khoản tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Việt Nam (Niêm phong trong phong bì, mặt ngoài ghi vụ: Trương Thế A, sinh năm 1994; HKTT: Tổ B, phường NX, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng. Hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Bắt ngày 14/04/2017).

Toàn bộ vật chứng, tài sản trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/7/2017.

3. Về án phí:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử buộc bị cáo Trương Thế A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2017/HSST ngày 30/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:57/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về