Bản án 57/2017/HSST ngày 07/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 57/2017/HSST NGÀY 07/12/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Hôm nay, ngày 07 tháng 12 năm 2017 tại Khu dân cư Phước Kiển, Ấp 5, xã Phước Kiển, huyện NH Bè, xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số 63/2017/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2017/HSST-QĐ ngày 09 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hoài H (tên gọi khác: Đen), sinh năm 1992; Hộ khẩu thường trú: 44/5 Tổ 16, Khu phố 6, thị trấn NH Bè, huyện NH Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở trước khi bị bắt: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; con ông Nguyễn Văn B (chết) và bà Trần Thị Kim T (chết); Vợ: Lê Thị Minh T; Con: Nguyễn Hoài B, sinh năm 2013;

Tiền án: Không

Tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Ông Võ Hồng H, sinh năm 1972

Trú tại: 1806/80/27 Tổ 15 Khu phố 6, thị trấn NH Bè, huyện NH Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Có mặt)

3/ Người liên quan:

- Bà Trần Thị Thu C, sinh năm 1961

Trú tại: 44/5 Tổ 16, Khu phố 6, thị trấn NH Bè, huyện NH Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Có mặt)

- Ông Nguyễn Văn P (tự Tèo, Tài Què), sinh năm 1972

Trú tại: 1886/58/28 Khu phố 6, thị trấn NH Bè, huyện NH Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Vắng mặt)

- Bà Lê Thị E (tự Sáu), sinh năm 1958

Trú tại: 1886/53 Khu phố 6, thị trấn NH Bè, huyện NH Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ Tết Nguyên Đán năm 2017 nên khoảng 16 giờ 00 phút ngày 04/4/2017, tại quán cà phê của bà Lê Thị E (tự Sáu) Nguyễn Hoài H đã dùng một cái ly thủy tinh tại bàn nước đánh một cái vào phía bên trái đầu của ông Võ Hồng H, do ông H đội nón nên không thương tích gì. Sau đó ông H bỏ đi.

Hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày, ông H trở lại quán cà phê có mang theo một thanh kim loại bằng inox, màu trắng, dài khoảng 0,7m, thân rỗng, tròn có đường kính khoảng 1,5cm với mục đích để phòng thân.

Khi đó, sau khi H lấy một con dao Thái Lan tại nhà dì ruột (Là bà Trần Thị Thu C), dài khoảng 22cm, có cán bằng gỗ (loại dao nhỏ thường dùng gọt trái cây) cất trong người cũng đi đến quán cà phê.

Tại quán cà phê, lúc này có mặt ông Nguyễn Văn P, (tự Tèo, Tài Què). Khi ở vị trí cách xa nhau từ 6m đến 10 m Nguyễn Hoài H và ông Võ Hồng H đã lời qua tiếng lại, Nguyễn Hoài H nói “Thằng nào rảnh thì chơi”, Võ Hồng H đáp “Tao không rảnh”, Nguyễn Hoài H nói “Ngon thì một chọi một”, Võ Hồng H đáp “Quất luôn”. Ngay sau khi ông H đáp “Quất luôn” thì Nguyễn Hoài H dùng tay phải rút dao ra tiến đến để tấn công ông H. Ngay lập tức, ông Võ Hồng H rút thanh kim loại bằng inox và đánh trúng tay phải của Nguyễn Hoài H làm H rớt dao và ngã xuống. Liền sau đó, H vùng dậy được và cầm dao đâm ông H nhiều nhát. Ông H lùi lại và tránh được nhưng do mất đà nên bị H đâm trúng một cái vào vùng cổ phía bên phải, gây thương tích.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè, Nguyễn Hoài H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số  366/Tg.T.17 ngày 15/05/2017 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với ông Võ Hồng H, kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương cổ phải gây thủng tĩnh mạch cảnh, đã được phẫu thuật mở rộng vết thương thám sát, khâu tĩnh mạch cảnh, hiện

còn sẹo kích thước 12,8x 1cm và nhiều sẹo chỉ khâu trên diện 12,8x 0,1cm rõ tại cổ phải, ảnh hưởng thẩm mỹ.

- Theo Thông tư số 20/2014/TT – BYT ngày 12/06/2014 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 14% (mười bốn phần trăm).

- Kết luận khác: Thương tích do vật sắc nhọn gây ra.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh theo điểm a, i khoản 1, khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 và phân tích điều luật 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a, m khoản 1, khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14 và đề nghị xử phạt Nguyễn Hoài H từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Võ Hồng H yêu cầu bị cáo bồi thường 20.309.538 đồng.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy một thanh kim loại bằng inox, màu trắng, dài khoảng 0,7m, thân tròn, rỗng, có đường kính khoảng 1,5cm do không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy một con dao Thái Lan, có cán bằng gỗ dài khoảng 10cm và lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 12cm do không còn giá trị sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong bản Cáo trạng; nội dung phân tích, luận tội của kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, đồng thời cho rằng mình không bị oan và trong lời nói sau cùng đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập với cộng đồng và làm người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; Căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra công an huyện Nhà Bè, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm

quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố; bị cáo, người bị hại, người liên quan cũng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 366/Tg.T.17 ngày 15/05/2017 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh; lời khai của bị cáo, người bị hại tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 04/4/2017, bị cáo Nguyễn Hoài H đã có hành vi dùng dao gây thương tích cho ông Võ Hồng H với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 14% là phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Hoài H là người đã trưởng thành, bị cáo biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng do xem thường pháp luật nên bị cáo đã dùng dao gây thương tích cho ông Võ Hồng H với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 14%.

Trong vụ án này, mặc dù tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích cho người bị hại là 14% nhưng do bị cáo đã dùng dao Thái Lan là loại hung khí nguy hiểm để tấn công và gây thương tích cho ông Võ Hồng H là đã phạm vào khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có cơ sở.

Đối với cáo buộc của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về hành vi phạm tội có tính chất côn đồ quy định điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét:

Hành vi của bị cáo dùng chiếc ly thủy tinh đập vào phía bên trái đầu của ông Võ Hồng H vào hồi 16 giờ 00 phút ngày 04/4/2017 thì không gây thương tích gì.

Khi bị cáo gây thương tích cho người bị hại là vào hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày, lẽ ra ông Võ Hồng H không trở lại quán cá phê vào thời điểm đó thì vụ án cũng không xảy ra. Hành vi tấn công của bị cáo không phải là do vô cớ.

Khoảng thời gian 30 phút từ 16 giờ 00 phút đến 16 giờ 30 phút cùng ngày là hiện thực khách quan, đủ quỹ thời gian để người bị hại trình báo với cơ quan có thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn nhưng chính người bị hại cũng không lựa chọn biện pháp này.

Trong vụ án này, người bị hại cũng là người có một phần lỗi (Mang theo hung khí, người bị hại dùng thanh kim loại đánh vào tay phải của bị cáo làm bị cáo rơi dao xuống đất, sau đó bị cáo nhặt được dao vùng dậy và tấn công người bị hại gây thương tích).

Từ những lập luận, phân tích nêu trên; trên cơ sơ xem xét đầy đủ, toàn diện, diễn biến sự việc phạm tội, Hội đồng xét xử không xem hành vi gây thương tích cho người bị hại của bị cáo là có tính chất côn đồ.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số12/2017/QH14 về hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, tương xứng mới có khả năng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, để răn đe riêng và phòng ngừa chung đối với những hành vi tương tự.

Tuy nhiên: Xét tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Võ Hồng H yêu cầu bị cáo bồi thường 20.309.538 đồng.

Xét yêu cầu bồi thường của người bị hại, thấy rằng theo các chứng từ, hóa đơn mà ông H cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho việc điều trị thương tích là 20.309.538 đồng là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại số tiền là: 20.309.538 đồng, bồi thường làm một lần, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, đến hạn trả tiền và ông Võ Hồng H có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo chậm trả cho ông Võ Hồng H số tiền 20.309.538 đồng nêu trên thì bị cáo còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Về việc xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy một thanh kim loại bằng inox, màu trắng, dài khoảng 0,7m, thân tròn, rỗng, có đường kính khoảng 1,5cm do không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy một con dao Thái Lan, có cán bằng gỗ dài khoảng 10cm và lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 12cm do không còn giá trị sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,  miễn, giảm,  thu  nộp, quản  lý  và sử  dụng  án  phí  và lệ phí  Tòa án  ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài H (tên gọi khác: Đen) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2, Điều 104, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự;

Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khóa 14.

Xử phạt: Nguyễn Hoài H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2017.

2. Áp dụng các Điều 357, 468 và Điều 690 Bộ luật Dân sự 

Buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Võ Hồng H số tiền là 20.309.538 đồng, bồi thường làm một lần, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, đến hạn trả tiền và ông Võ Hồng H có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo chậm trả cho ông Võ Hồng H số tiền 20.309.538 đồng nêu trên thì bị cáo còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy một thanh kim loại bằng inox, màu trắng, dài khoảng 0,7m, thân tròn, rỗng, có đường kính khoảng 1,5cm theo Phiếu nhập kho số: 2017- NK43 ngày 06/9/2017.

- Tịch thu tiêu hủy một con dao Thái Lan, có cán bằng gỗ dài khoảng 10cm và lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 12cm theo Phiếu nhập kho số: 2017-NK43 ngày 06/9/2017.

4. Áp dụng Điều 98, Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,  miễn, giảm,  thu  nộp, quản  lý  và sử  dụng  án  phí  và lệ phí  Tòa án  ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Buộc bị cáo phải nộp 1.015.477đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Áp dụng các Điều 231, 234  Bộ luật tố tụng hình sự 

Bị cáo, người bị hại, người liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nH được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2017/HSST ngày 07/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:57/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về