Bản án 571/2020/HSST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 571/2020/HSST NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 593A/2020/HSST ngày 19/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 604/2020/QĐXXST-HS ngày 26/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thị H, tên gọi khác: không; sinh ngày 16 tháng 7 năm 1968; Nơi ĐKHKTT: Tổ 4, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 07/10; Dân tộc: Kinh Giới tính:Nam;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Đình H (Đã chết),con bà:Đoàn Thị M (Đã chết); Chồng: Nguyễn M H, sinh năm 1971; có 02 con: Con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 2005;

- Tiền án: Tại Bản án số 58/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 16/8/2019.

- Tiền sự: Không;

- Nhân thân:

+ Tại Bản án số 28/HSST ngày 19/3/2001 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã thi hành xong.

+ Tại Bản án số 266/2005/HSST ngày 08/11/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đã thi hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên toà).

* Người chứng kiến:

1. Anh Lưu Vĩnh Y, sinh năm: 1985, trú tại: Tổ 12, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

2. Anh Lưu Văn C, sinh năm: 1969, trú tại: Tổ 12, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

3. Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm: 1966, trú tại: Tổ 04, phường Tr, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

4. Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm: 1957, trú tại: Tổ 03, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng: Chị Nguyễn M H, sinh năm: 2005, trú tại: Tổ 04, phường T, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

* Người giám hộ của người làm chứng: Chị Trần Thị M H1, sinh năm 1990, trú tại: Tổ 04, phường T, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1978, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 5, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 45 phút ngày 06/10/2020, tổ công tác của Công an phường Q, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực phường Q và địa bàn giáp ranh. Khi đến khu vực đường dân sinh thuộc xóm 10, xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 người phụ nữ điều khiển xe mô tô BKS 20B2-253.72 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Khi tổ công tác áp sát thì người phụ nữ thả từ bàn tay trái xuống đất sát vị trí đứng 01 gói giấy (loại giấy ăn). Người này khai tên là Trần Thị H. Kiểm tra bên trong gói giấy ăn H vừa thả xuống đất thấy bên trong có 02 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng và 01 gói giấy màu đen bên trong chứa 01 viên nén màu hồng. H khai đó là ma túy Heroine và hồng phiến của H. Tổ công tác đã Thành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu xanh, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision BKS 20B2-253.72 và số tiền 200.000đồng.

Cùng ngày,Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của H có khối lượng 0,214 gam, cho vào bì niêm phong ký hiệu H gửi giám định; cân 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,104 gam, cho vào bì niêm phong ký hiệu H1 gửi giám định.

Hồi 01 giờ 00 ngày 07/10/2020, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Thị H tại tổ 3, phường Q, thành phố Thái Nguyên, phát hiện thu giữ tại bàn trang điểm trong phòng ngủ của H 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa chất bột màu hồng, trắng và 01 cân điện tử màu trắng.

Cùng ngày,Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyêntiến hành mở niêm phong,cân toàn bộ số chất bột màu trắng hồng thu giữ tại phòng trọ của H có khối lượng 0,085 gam,cho vào bì niêm phong ký hiệu H2 gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 1283/KL-KTHS ngày 14/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong bì ký hiệu H gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,214 gam; Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu H1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,104 gam; Mẫu chất bột màu trắng hồng trong phong bì H2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine và Heroine, có khối lượng 0,085 gam.

Tại cơ quan điều tra,Trần Thị H khai: Bản thân H là người nghiện ma túy. Vào trưa ngày 04/10/2020, tại khu vực km số 6 đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn, H có mua của 01 người phụ nữ tên là Bích, (không rõ lai lịch cụ thể) 1.000.000đ tiền ma túy Heroine; buổi chiều cùng ngày H mua 02 viên hồng phiến với giá 140.000đ của 01 người đàn ông không quen biết ở khu vực đường tròn T, thành phố Thái Nguyên. H mang số ma túy này về chia nhỏ để sử dụng dần. Khoảng 08 giờ ngày 06/10/2020, H cầm theo 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa Heroine và 01 gói giấy màu đen bên trong chứa 01viên hồng phiến, dùng giấy ăn bọc bên ngoài rồi cầm trong lòng bàn tay trái. H điều khiển xe mô tô BKS 20B2-253.72 đi từ phòng trọ lên chợ trung tâm giải quyết công việc rồi sau đó đi đến khu vực xóm 10, xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác Công an phường Q phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên. Số chất bột màu trắng, hồng thu giữ tại phòng trọ của H tại tổ 3, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên là Heroine và hồng phiến có nguồn gốc từ số ma túy H mua ngày 04/10/2020, H nghiền nhỏ ra để sử dụng cho bản thân nhưng chưa sử dụng hết.

Tại bản cáo trạng số 589/CT-VKSTPTN ngày 13/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định truy tố Trần Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: TuY bố bị cáo Trần Thị H phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị H: Từ 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù đến 06 (sáu) năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy: 03 (ba) bì niêm phong ký hiệu H, H1, H2. Bì niêm phong chứa chất ma túy- Mẫu hoàn sau giám định. Trên mặt phong bì có 02 dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trương Đăng Tam và Ngô Đức Cường; 01 cân điện tử màu trắng.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1978, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 05, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu: HONDA, số loại: VISION, màu sơn: Đỏ Nâu đen. BKS: 20B2- 253.72, số máy: JF86E-0304061; số Kng: RLHJF58 3XKY584409. Dung tích xi lanh: 108; số chỗ ngồi: 02. Xe cũ, đã qua sử dụng Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo Trần Thị H: 01 (một) điện thoại di động màu xanh, nhãn hiệu Sam Sung có số IMEI1: 353465/10/279442/5; IMEI2: 353466/10/279442/3. Máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 200.000đồng (Kèm theo ủy nhiệm chi số 114 ngày 11/11/2020) Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo, người có quyền nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị H và những người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Thị H thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 09 giờ 45 phút ngày 06/10/2020, tại khu vực xóm 10, xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên, Trần Thị H có hành vi tàng trữ 0,214 gam Heroine và 0,104 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của phường Q phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hồi 01 giờ 00 phút ngày 07/10/2020, khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Thị H tại tổ 3, phường Q, thành phố Thái Nguyên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện Trần Thị H có hành vi tàng trữ 0,085 gam hỗn hợp Heroine và Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổng khối lượng Heroine và Methamphetamine Trần Thị H tàng trữ để sử dụng là 0,403 gam. Nguồn gốc số Heroine trên là của H mua của 01 người phụ nữ tên là Bích (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực km số 6, đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn vào buổi trưa ngày 04/10/2020; số Methamphetamine là của H mua của 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường tròn T, thành phố Thái Nguyên vào buổi chiều ngày 04/10/2020, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Bản cáo trạng số 589/CT-VKSTPTN ngày 13/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Trần Thị H về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều luật như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...

b)Phạm tội 02 lần trở lên.”

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguY nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine và Methamphetamine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân rất xấu, có 01 tiền án về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo, do đó cần có một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp“Tái phạm” nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử thấy, để đảm bảo tính nghiêm M của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt từ tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa C. Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo Y tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung” phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng….tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản và thu nhập do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy: 03 (ba) bì niêm phong ký hiệu H, H1, H2. Bì niêm phong chứa chất ma túy- Mẫu hoàn sau giám định. Trên mặt phong bì có 02 dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trương Đăng Tam và Ngô Đức Cường; 01 cân điện tử màu trắng.

Đối với: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu: HONDA, số loại: VISION, màu sơn: Đỏ Nâu đen. BKS: 20B2-253.72, số máy: JF86E-0304061; số Kng: RLHJF58 3XKY584409. Dung tích xi lanh: 108; số chỗ ngồi: 02. Xe cũ, đã qua sử dụng tạm giữ của bị cáo H, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo H xác định chiếc xe trên là của bị cáo mua mang tên bị cáo nhưng vì điều kiện kinh tế khó khăn nên trong tháng 05 năm 2020 bị cáo đã viết giấy bán xe cho cháu Nguyễn Thị M, sinh năm 1978, trú tại phường Q, TP, Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo mượn xe của M đi bị cáo không nói với M là đi đâu, tại cơ quan điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị M cũng xác định chiếc xe trên là của chị, chị đã mua lại của bị cáo có giấy tờ mua bán viết tay, bị cáo H mượn xe đi chị không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, chị có đơn xin lại xe, xét cần trả lại chiếc xe trên cho chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1978, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 05, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng;

Đối với: 01 (một) điện thoại di động màu xanh, nhãn hiệu Sam Sung có số IMEI1: 353465/10/279442/5; IMEI2: 353466/10/279442/3. Máy cũ đã qua sử dụng tạm giữ của bị cáo H, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo xác định là của bị cáo, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo Trần Thị H;

Đối với số tiền 200.000đồng (Kèm theo ủy nhiệm chi số 114 ngày 11/11/2020) tạm giữ của bị cáo H, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo xác định là tiền của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo H.

[7].Án phí và quyền kháng cáo:Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước;Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8].Các vấn đề khác: Vê nguôn gôc số ma túy bị thu giữ Trần Thị H khai mua số Heroine của 01 người phụ nữ tên Bích (không rõ tên tuổi, địa chỉ) tại khu vực km số 6 đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn; Số Methamphetamine mua của 01 người đàn ông không quen biết tại khu vực đường tròn T, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điêu tra không xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý; Đối với chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1978, HKTT:Tổ 5, phường Q, thành phố Thái Nguyên, là người cho Trần Thị H mượn chiếc xe mô tô BKS 20B2-253.72, xét thấy chị M không biết khi H sử dụng xe có tàng trữ trái phép chất ma túy trên người nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không xử lý

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b Khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1/ Xử phạt: Trần Thị H 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 06/10/2020; Quyết định tạm giam bị cáo Trần Thị H 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 03 (ba) bì niêm phong ký hiệu H, H1, H2. Bì niêm phong chứa chất ma túy- Mẫu hoàn sau giám định. Trên mặt phong bì có 02 dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trương Đăng Tam và Ngô Đức Cường; 01 cân điện tử màu trắng.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1978, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 05, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu: HONDA, số loại: VISION, màu sơn: Đỏ Nâu đen. BKS: 20B2- 253.72, số máy:JF86E-0304061; số Kng: RLHJF583XKY584409. Dung tích xi lanh: 108; số chỗ ngồi: 02. Xe cũ, đã qua sử dụng Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo Trần Thị H: 01 (một) điện thoại di động màu xanh,nhãn hiệu Sam Sung có số IMEI1: 353465/10/279442/5; IMEI2: 353466/10/279442/3. Máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 200.000đồng (Kèm theo ủy nhiệm chi số 114 ngày 11/11/2020) (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 119 ngày 13/11/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4/Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Thị H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị M vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 571/2020/HSST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:571/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về