Bản án 568/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 568/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường 06, trụ sở Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 558/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 574/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

- Trần Vũ P, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: Tổ 2, khu phố 4C, P.Trảng Dài, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần A S, sinh năm: không rõ (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1961; bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 04/01/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 06 (sáu) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 01/4/2019, chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: Ngày 01/2/2018 bị Công an thành phố Biên Hòa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản. Hiện bị cáo chưa chấp hành việc đóng phạt.

Bị hại: Anh Đặng Văn T, sinh năm 1982 (vắng mặt)

Địa chỉ: 02/7, tổ 93, khu phố 13, phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 28/8/2019, Lê Tuấn A sinh năm 1993, hộ khẩu thường trú số 138/4, khu phố 10, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave (không rõ biển số) chở P đi chơi. Khi đi đến khu vực cổng sau đền thờ Martin địa chỉ tổ 4, khu phố 8B, phường Tân Biên, thành  phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, P xuống xe và yêu cầu Lê Tuấn A đi về trước, còn P đi bộ vào nhà bạn gần đó để chơi. Khi P đi bộ ngang qua của hàng đồ gỗ của gia đình anh Đặng Văn T, P nhìn thấy có 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Impulse, biển số 60B6 – 406.86 của anh T đang để ở trước cửa hảng, (bên trong cốp xe anh T để 01 (một) cái ví da có số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 (một) Giấy đăng ký xe mô tô biển số 60B6 – 406.86), trên xe có chìa khóa được cắm vào ổ khóa xe và không có người trông coi nên P nảy sinh ý định chiếm đoạt. P đi đến, mở khóa xe rồi điều khiển xe bỏ đi. Lúc này, anh T từ bên trong cửa hàng phát hiện nên truy hô và điều khiển xe mô tô khác đuổi theo P. Khi đến trước nhà số 252B/2, khu phố 8A, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa do bà Trần Thị Dung làm chủ thì P bị té ngã nên P vứt xe, bỏ chạy vào nhà bà Dung thì bị anh T và quần chúng nhân dân bắt giữ P cùng tang vật giao cho Công an phường Tân Biên lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Impulse, biển số 60B6 – 406.86, số khung 0111423, số máy 3111465; bên trong cốp xe 60B6 – 406.86 có 01 (một) ví da đã cũ, màu đen có số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 (một) Giấy phép đăng ký xe mô tô biển số 60B6 – 406.86, là tài sản của anh Đặng Văn T, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho anh T (chiếc ví da không có nhãn hiệu, đã cũ, anh T không yêu cầu định giá).

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, đã cũ, số Imei 3010141748822418 là tài sản cá nhân của bị cáo Trần Vũ P, không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho P.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 441/TCKH-HĐĐG ngày 03/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa đã kết luận: “01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Impulse, biên số 60B6 – 406.86, số khung 0111423, số máy 3111465, có giá trị định giá là 21.973.000 đồng (Hai mươi mốt triệu chín trăm bảy mươi ba nghìn đồng)”.

Về dân sự: Bị hại anh Đặng Văn T đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 564/CT-VKS-HS ngày 11/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Vũ P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 01, Điều 173; điểm h, s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Trần Vũ P phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo P từ 14 đến 16 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Vũ P thừa nhận vào ngày 28/8/2019, khi phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Impulse, biển số 60B6 – 406.86 của anh T đang để ở trước cửa hàng, bên trong cốp xe 60B6 – 406.86 có 01 (một) ví da đã cũ, màu đen có số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 (một) Giấy phép đăng ký xe mô tô biển số 60B6 – 406.86, không có người trông coi nên đã lén lút chiếm đoạt. Tổng giá trị tài sản P đã chiếm đoạt của anh T là 23.473.000 đồng (Hai mươi ba triệu bốn trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Trần Vũ P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người đúng tội. Quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu của người khác do vậy phải chịu trách nhiệm trước pháp luật bằng một hình phạt tương ứng với mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm (điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 01, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[2]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho bị hại theo quy định của pháp luật.

[3]. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo xác định không bị ép cung hay dùng nhục hình, lời khai của bị cáo là chính xác và hoàn toàn tự nguyện. Đối chiếu các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là đúng quy định của pháp luật.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 135, 136, 288, 289, 292, 298, 299 Bộ luật tố tụng Hình sự. Áp dụng điểm khoản 01, Điều 173; điểm s, khoản 01, Điều 51; điểm h, khoản 01, Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trần Vũ P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Vũ P 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2019.

Về án phí: Buộc bị cáo Trần Vũ P phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm hình sự xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 568/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:568/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về