Bản án 56/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 56/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 64/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 59/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Quang T - Sinh năm: 1983; Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Số nhà A, Ái Sơn, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông: Trần Văn D (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th; Tiền án: Ngày 12/4/2019 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/6/2020);Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 06/5/2008 Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 25/3/2015 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa đã xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 08/4/2016 Công an phường Tân Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”; Bắt tạm giam từ ngày 04/9/2020 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22h00 ngày 29/8/2020, tại khu vực gầm cầu Bến Ngự, đường Ái Sơn, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Tổ tuần tra kiểm soát Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa kiểm tra đối với Trần Quang T thì phát hiện và thu giữ trên tay phải của T 03 gói nilon màu vàng, kích thước mỗi gói khoảng ( 1 x 1,5)cm, bên trong chứa gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng T khai là hê rôin cất giấu để sử dụng.

Tại kết luận giám định số 2347/PC09 ngày 01/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng là 0,353g, loại Hê rôin.

Quá trình điều tra Trần Quang T đã khai nhận: Khoảng 21h45 phút ngày 29/8/2020, T đi đến khu vực bờ đê Ái Sơn, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa hỏi mua được 03 gói hêrôin với giá 300.000đ của một nam thanh niên khoảng 30 tuổi, không rõ tên tuổi và địa chỉ. Sau đó T cầm ma túy đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực gầm cầu Bến Ngự, đường Ái Sơn, phường Đông Hải thì bị cơ quan Công an kiểm tra thu giữ số ma túy trên.

Đối với người đàn ông T khai đã bán ma túy cho T, nhưng do T không biết tên, địa chỉ, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa không có căn cứ để xử lý.

Về vật chứng: 01 phong bì ma túy niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Hoàng Tiến Dũng và Trần Văn Quang.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 40/THA ngày 18/11/2020, giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Tại bản cáo trạng số 327CTr-VKS- MT ngày 03/ 11 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, đã truy tố bị cáo Trần Quang T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Trần Quang T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Xử phạt bị cáo Trần Quang T từ 24 đến 30 tháng tù.

- Về vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự - Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy.

- Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện VKS.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng 22h00 phút, ngày 29/8/2020, tại khu vực gầm cầu Bến Ngự, đường Ái Sơn, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Tổ tuần tra kiểm soát phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa đã kiểm tra phát hiện Trần Quang T đang có hành vi tàng trữ trái phép 03 gói ma túy có tổng khổi lượng 0,353g loại Hêrôin.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Vì vậy VKSND thành phố Thanh Hóa, truy tố bị cáo Trần Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hiện nay tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Trong vụ án này bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích của bản án số 108/2019/HSST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa là thuộc trường hợp “ Tái Phạm”. Do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng:

Đối với 01 phong bì ma là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Do đó cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự.

Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Trần Quang T 24 ( Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2020.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Hoàng Tiến Dũng và Trần Văn Quang.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 40/THA ngày 18/11/2020, giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về