TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 45/2020/TLST – HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXX-HN ngày 10 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đào Thị Thu S, sinh năm 1994; Địa chỉ: Đường L, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1992; Địa chỉ: Khu vực L, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1958; Địa chỉ: vực L, phường T, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Đào Thị Thu S trình bày: Chị và anh Nguyễn Thanh B quen nhau qua mai mối, tự nguyện tổ chức cưới, đăng ký kết hôn tại UBND phường T ngày 04/4/2017.
Sau khi cưới, vợ chồng sống tại nhà cha mẹ chồng ở khu vực L, phường T Năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh B không lo làm ăn, thường nhậu nhẹt gây chuyện chửi mắng, đánh đập chị. Chị phát hiện anh B nhắn tin ngoại tình với người phụ nữ khác. Sau tết năm 2020, gia đình chồng đuổi chị, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không liên lạc gì. Chị không còn tình cảm với anh Nguyễn Thanh B nên yêu cầu ly hôn.
Vợ chồng có một người con chung tên Nguyễn Đào Ngọc M, sinh ngày 04/9/2018, hiện đang ở với anh B. Chị yêu cầu được nuôi con, anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ.
Tài sản chung: Vàng cưới 04 chỉ vàng y, sau khi cưới thì chồng lấy đưa cho mẹ chồng Nguyễn Thị T giữ, yêu cầu chia đôi số vàng này.
Bị đơn anh Nguyễn Thanh B trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Thu S tìm hiểu, tự nguyện tổ chức lễ cưới ngày 19/4/2017 AL, đăng ký kết hôn tại UBND phường T ngày 04/4/2017.
Sau khi cưới, vợ chồng sống tại nhà cha mẹ anh ở khu vực L, phường T. Sau khi sinh con khoảng 01 tháng, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do con khóc, anh nói chị S cho con bú nhưng chị S không chịu, nói để cho chị S ngủ, anh tức giận đánh chị S. Tối đó mẹ vợ đến nhà dẫn chị S đi, để con gái lại cho anh nuôi, chị S đi khoảng 10 ngày thì quay về. Cuối năm 2019, chị S tự ý bỏ đi tiếp, để con cho anh nuôi, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị S yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý.
Vợ chồng có một người con chung tên Nguyễn Đào Ngọc M, sinh ngày 04/9/2018, hiện đang ở với anh. Anh yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.
Tài sản chung: Vàng cưới 04 chỉ vàng y, khi con 01 tháng tuổi chị S bỏ đi nên anh bán 02 chỉ vàng chăm con, còn 02 chỉ vàng nhờ mẹ Nguyễn Thị T giữ giùm. Tháng 11/2019, con đau nằm bệnh viện, anh lấy lại 02 chỉ vàng bán để chi phí chữa bệnh cho con, anh có điện thoại nói cho chị S biết, hiện vợ chồng không còn tài sản chung.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà là mẹ ruột của anh Nguyễn Thanh B. Khi anh B cưới vợ, vợ chồng bà cho 04 chỉ vàng y.
Vàng cưới do vợ chồng B giữ. Khi S bỏ đi, B lấy 02 chỉ vàng bán để nuôi con, 02 chỉ đưa bà giữ. Khi S bỏ đi lần 2, cháu M đau nằm bệnh viện, bà đã đưa lại anh B 02 chỉ vàng để bán lấy tiền chăm con. Hiện bà không có giữ tài sản gì của vợ chồng Đào Thị Thu S – Nguyễn Thanh B.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn tham gia phiên Tòa: Về tố tụng: Hoạt động tố tụng của Tòa án trong quá trình thụ lý và tại phiên Tòa đều tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Đề nghị công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Đào Thị Thu S và anh Nguyễn Thanh B. Giao cho anh Nguyễn Thanh B nuôi cháu Nguyễn Đào Ngọc M, sinh ngày 04/9/2018. Bác yêu cầu của chị Đào Thị Thu S chia đôi 04 chỉ vàng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Đào Thị Thu S có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Thanh B và yêu cầu giải quyết trách nhiệm nuôi dưỡng con chung, chia tài sản chung khi ly hôn; bị đơn Nguyễn Thanh B đang cư trú tại thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Chị Đào Thị Thu S và anh Nguyễn Thanh B tự nguyện xác lập quan hệ vợ chồng, đăng ký kết hôn tại UBND phường T ngày 04/4/2017 nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.
[3] Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể khắc phục, sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay, chị Đào Thị Thu S xác định không còn tình cảm với anh Nguyễn Thanh B, yêu cầu ly hôn. Anh Nguyễn Thanh B xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, thống nhất ly hôn. Xét thực tế mâu thuẫn giữa chị S, anh B là trầm trọng, hai người không còn chung sống gần một năm, nên sự thuận tình ly hôn của chị S và anh B là tự nguyện, phản ánh đúng mức độ mâu thuẫn giữa hai người nên Tòa ghi nhận.
[4] Về trách nhiệm nuôi dưỡng con chung sau ly hôn: Giữa chị Đào Thị Thu S và anh Nguyễn Thanh B có một người con chung tên Nguyễn Đào Ngọc M, sinh ngày 04/9/2018, hiện đang ở với anh B. Chị Đào Thị Thu S và anh Nguyễn Thanh B tranh chấp việc nuôi dưỡng con chung sau ly hôn. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm, cháu Nguyễn Đào Ngọc M được 02 năm 03 tháng 19 ngày tuổi, độ tuổi theo quy định pháp luật nên giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn. Tuy nhiên, kể từ khi chị Đào Thị Thu S bỏ đi giao con lại cho anh Nguyễn Thanh B nuôi đến nay đã gần 01 năm nhưng chị S không một lần đến để thăm nom, chăm sóc con. Điều này phần nào phản ánh tình thương và trách nhiệm của chị Đào Thị Thu S dành cho con. Gần một năm nay, anh Nguyễn Thanh B đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm nuôi dưỡng con, vừa làm cha vừa làm mẹ để nuôi con chu đáo. Cháu Nguyễn Đào Ngọc M đã phần nào quen và ổn định môi trường sống, phát triển với sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha. Đồng thời, anh Nguyễn Thanh B còn chứng minh rằng chị Đào Thị Thu S có những hạn chế nhất định trong việc nuôi con như không biết chữ, thu nhập thấp, công việc không ổn định. Và nhất là trước khi kết hôn với anh, chị Đào Thị Thu S có một người con riêng nhưng chị S không nuôi mà đã cho đứa bé này cho người khác (vấn đề này chị Đào Thị Thu S đã thừa nhận tại phiên tòa). Do vậy, để đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi cho việc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Đào Ngọc M, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục giao cháu Nguyễn Đào Ngọc M cho anh Nguyễn Thanh B trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh B không yêu cầu chị Đào Thị Thu S cấp dưỡng nuôi con nên Tòa ghi nhận.
[5] Việc tranh chấp 04 chỉ vàng 24k là tài sản chung: Khi chị Đào Thị Thu S bỏ đi, anh Nguyễn Thanh B là người quản lý số tài sản này. Thế nhưng gần 01 năm qua anh B là người trực tiếp nuôi người con chung. Chị Đào Thị Thu S không đóng góp, không cấp dưỡng. Anh Nguyễn Thanh B đã xác định và chứng minh 04 chỉ vàng này anh đã sử dụng vào việc nuôi con, chữa bệnh cho con là có căn cứ nên bác yêu cầu tranh chấp tài sản của chị Đào Thị Thu S.
[6] Về án phí: Chị Đào Thị Thu S phải chịu 300.000đ án phí ly hôn và 400.000đ án phí bác yêu cầu tranh chấp tài sản chung.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 227, 264, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110, 116, 117, 118 Luật hôn nhân và gia đình; Áp dụng điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Đào Thị Thu S và anh Nguyễn Thanh B.
2/ Về quan hệ con chung: Giao cho anh Nguyễn Thanh B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Đào Ngọc M, sinh ngày 04/9/2018. Chị Đào Thị Thu S không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3/ Về tài sản chung: Bác yêu cầu tranh chấp 02 chỉ vàng 24k của chị Đào Thị Thu S. Xác định 04 chỉ vàng 24k là tài sản chung anh Nguyễn Thanh B đã sử dụng hết vào việc nuôi và chữa bệnh cho con chung.
4/ Về án phí: Chị Đào Thị Thu S phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn và 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) án phí bác yêu cầu tranh chấp tài sản chung, được trừ vào 800.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001410 ngày 21/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã An Nhơn, hoàn trả cho chị S 100.000đ (một trăm nghìn đồng).
5/ Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 56/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về