Bản án 56/2017/HNGĐ-ST ngày 16/11/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 56/2017/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 478/2017/TLST-HNGĐ ngày 12/10/2017 về  việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Võ Thị Bích V, sinh năm 1986; cư trú tại: Ấp B, xã T, huyện X, tỉnh Tây Ninh; “Có mặt”.

Bị đơn: Anh Trần Hoàng M, sinh năm 1988; nơi ĐKHKTT: Ấp B, xã T, huyện X, tỉnh Tây Ninh; đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Tây Ninh, địa chỉ: Ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Võ Thị Bích V trình bày: Chị và anh Trần Hoàng M tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện X, tỉnh Tây Ninh năm 2010. Quá trình chung sống đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh M không chăm lo gia đình, ham mê cờ bạc và sử dụng chất ma túy trái phép. Chị đã cho anh M nhiều cơ hội để sửa chữa nhưng anh M không thay đổi. Hiện nay, anh M đang đi cai nghiện tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Tây Ninh thời gian 24 tháng. Xét thấy sự chịu đựng của chị kéo dài nhiều năm, tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị và anh Trần Hoàng M có 02 con chung tên là Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 21/02/2005 và Trần Hoàng D, sinh ngày 07/3/2007, đều đang sống chung với chị. Theo nguyện vọng của các con, chị đồng ý nuôi cháu D và giao cháu H cho anh M nuôi dưỡng. Chị không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi cháu D.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/10/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Trần Hoàng M trình bày: Anh thừa nhận những lời trình bày của chị Võ Thị Bích V về thời gian chung sống, kết hôn là đúng. Theo anh M, thời gian khoảng hai năm nay, vợ chồng anh có phát sinh một số mâu thuẫn vợ con không đáng kể, thỉnh thoảng anh có tham gia đánh bài ăn tiền và sử dụng ma túy. Chị V có khuyên can nhưng do anh tin lời bạn bè nên sa ngã và hiện nay đang cai nghiện tập trung tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Tây Ninh. Anh đã biết lỗi của mình và xin hàn gắn đoàn tụ gia đình, không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh thống nhất với lời trình bày của chị V về con chung và việc nuôi dưỡng con chung theo nguyện vọng của các cháu. Anh không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi cháu H.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa: Anh Trần Hoàng M vắng mặt. Chị Võ Thị Bích V vẫn giữ ý kiến ban đầu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục thụ lý, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã đảm bảo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị Bích V đối với anh Trần Hoàng M; ghi nhận sự thỏa thuận của chị V và anh M về con chung: Giao cháu Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 21/02/2005 cho anh M nuôi dưỡng, giao cháu Trần Hoàng D, sinh ngày 07/3/2007 cho chị V nuôi dưỡng. Ghi nhận chị V, anh M đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản và nợ chung không đặt ra giải quyết; chị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về việc vắng mặt đương sự: Anh Trần Hoàng M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M.

[2] Về hôn nhân: Chị Võ Thị Bích V và anh Trần Hoàng M tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2005, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện X, tỉnh Tây Ninh. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Chị Võ Thị Bích V yêu cầu ly hôn với anh Trần Hoàng M, anh M không đồng ý ly hôn. Xét lời trình bày của chị V và anh M đều thừa nhận từ năm 2015, anh M không quan tâm chăm sóc gia đình, ham mê cờ bạc, ma túy; chị V đã tạo điều kiện để anh thay đổi nhưng anh M không thể khắc phục được Trình bày của các đương sự phù hợp với kết quả xác minh thu thập chứng cứ thể hiện: Quá trình chung sống giữa chị V và anh M có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015, nguyên nhân do anh M không quan tâm, chăm lo gia đình và tham gia các tệ nạn xã hội như đánh bài, sử dụng trái phép chất ma túy. Bản thân anh M đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Tây Ninh thời gian 24 tháng. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị V, anh M đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V, chị V được ly hôn với anh M.

[3] Về con chung: Chị V, anh M có 02 con chung là cháu Trần Thị Ngọc H và cháu Trần Hoàng D. Cháu H có nguyện vọng được sống với anh M, cháu D có nguyện vọng được sống với chị V; cả chị V và anh M đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy thỏa thuận của chị V, anh M là tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng và đảm bảo lợi ích của con chung nên cần ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Võ Thị Bích V và anh Trần Hoàng M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Võ Thị Bích V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng theo Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XIV).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XIV):

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Bích V: Chị Võ Thị Bích V được ly hôn với anh Trần Hoàng M.

2. Về con chung:

Giao cháu Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 21/02/2005 cho anh Trần Hoàng M trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng; giao cháu Trần Hoàng D, sinh ngày 07/3/2007 cho chị Võ Thị Bích V trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Ghi nhận chị V, anh M không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, chị Võ Thị Bích V và anh Trần Hoàng M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Chị V, anh M cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở. Chị V, anh M không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Võ Thị Bích V và anh Trần Hoàng M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Võ Thị Bích V phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị V đã nộp theo biên lai thu số 0004611 ngày 12/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Ghi nhận chị Võ Thị Bích V đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Võ Thị Bích V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Trần Hoàng M vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

518
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2017/HNGĐ-ST ngày 16/11/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:56/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về