Bản án 559/2020/HS-PT ngày 25/11/2020 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 559/2020/HS-PT NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 440/2020/TLPT-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu.

* Bị cáo có kháng cáo:

Vũ Xuân Th, sinh ngày 01 tháng 12 năm 1990; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Tr, xã An Tr, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; tạm trú tại: Khu phố 12, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: lao động tự do; trước khi phạm tội là Đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ thôn Tràng, Đảng bộ xã An Tràng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, hiện đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 84-QĐ/UBKTHU ngày 27/3/2019 của Ủy ban kiểm tra huyện ủy Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; trình độ học vấn: lớp 12/12; con ông: Vũ Xuân Ch và bà Lê Thị T1; có vợ là: Điêu Thị K và có 01 con chung sinh năm 2014; chưa có tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/03/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Vũ Xuân Th (do gia đình bị cáo mời): Luật sư Nguyễn Văn Ng - Công ty luật Hưng Ng, Đoàn luật sư Hà Nội. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo (do Tòa án chỉ định): Luật sư Phan Văn Nh – Văn phòng luật sư Việt B, Đoàn Luật sư tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Người bị hại: Anh Hoàng Anh H, sinh năm 1991 (đã chết);

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Ông Hoàng Văn Th, sinh năm 1961 (bố đẻ anh Hoàng Anh H); trú tại: Tổ 9, phường Tân Ph, thành phố Lai Ch1, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Những người làm chứng:

1. Anh Lê Sỹ Th1, sinh năm 1985; trú tại: Thôn Hồng Ph, xã An Tr, huyện Quỳnh Ph1, tỉnh Thái Bình.Vắng mặt;

2. Anh Đỗ Như T2, sinh năm 1990; trú tại: Khu 8, thị trấn Tiên L, huyện Tiên L, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt;

3. Anh Vũ Duy T3, sinh năm 1987; trú tại: Thôn Tả Hà 2, xã Sơn H1, huyện Bảo Th2, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt;

4. Chị Phìn Thị V, sinh năm 1982; trú tại: Bản Mường T, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu và Bản án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2018, Phìn Thị V có vay của Vũ Xuân Th tổng số tiền 150.000.000 đồng. Do không có khả năng trả nợ nên V làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất tại bản Mường T, xã Mường T (do V và chồng là Lò Văn Đ đứng tên sở hữu) cho Vũ Xuân Th. Trước khi chuyển nhượng V và Th thống nhất, nếu Th bán mảnh đất trên được 240.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng thì Th lấy số tiền nợ, số tiền còn lại sẽ trả lại cho V. Tháng 3/2019, Th bán mảnh đất trên cho chị Lê Thị Hường, sinh năm 1976, trú tại bản Mường T, xã Mường T được 150.000.000 đồng.

Vì không được Th trả số tiền như đã hứa nên V nói chuyện với Trần Đình H2, Nguyễn Văn T4, Nguyễn Thanh B1 biết. Do V cũng đang nợ tiền của người nhà H2 nên H2, T4, B1 hứa giúp V đến đòi Th số tiền trên. Tối ngày 13/3/2019, H2, T4, B1 đi xe ô tô biển kiểm soát 21A-013.34 ra thành phố Lai Châu và rủ Hoàng Anh H, Đỗ Như T2, Vũ Duy T3 cùng 10 người khác vào thị trấn Mường T chơi. H2 thuê xe ô tô biển kiểm soát 25B-001.60 chở cả nhóm vào huyện Mường T. Khi đến thị trấn Mường T, cả nhóm ăn sáng rồi về nhà Trần Đình H2, sau đó Phìn Thị V đến và nói chuyện với nhóm của H2 với nội dung Th lừa V bán nhà đất, hứa sẽ đưa lại cho V số tiền 80.000.000 đồng, nhưng sau khi bán được nhà đất thì không đưa. Nhóm của H2 nói sẽ giúp V đòi nợ, hai bên không thỏa thuận tiền công và cách thức đòi nợ. Vì không biết nhà Th nên bảo V dẫn nhóm H2 đến nơi ở của Th tại Khu phố 12, thị trấn Mường T vào lúc khoảng 07 giờ 30 phút ngày 14/3/2019.

Khi đến nơi, Phìn Thị V, Vũ Duy T3, Hoàng Anh H và Đỗ Như T2 đi người không vào phòng trọ của Vũ Xuân Th (số người còn lại ngồi trên 02 xe ô tô đậu ở ngoài đường). Chờ một lúc thì Vũ Xuân Th cùng với Lê Sỹ Th1 (là em họ của Th) về rồi tất cả đi vào phòng trọ của Điêu Văn V (bên cạnh phòng trọ Th) để nói chuyện. Trong phòng trọ của Vinh có treo 02 thanh kiếm trên tường gần cửa ra vào, Th đi vào ngồi sát tường gần cửa ra vào, Th1 ngồi bên cạnh Th, còn Phìn Thị V, Vũ Duy T3, Hoàng Anh H và Đỗ Như T2 vào ngồi phía trong, đối diện với Th, Th1. Tại đây, Phìn Thị V yêu cầu Vũ Xuân Th trả số tiền 80.000.000 đồng như đã thỏa thuận, Th cho rằng không nợ nên không trả. Nói chuyện được một lúc thì V đi về và nói“Mấy đứa em ở lại giải quyết”, Vũ Duy T3, Hoàng Anh H và Đỗ Như T2 tiếp tục yêu cầu Th phải trả số tiền trên cho Phìn Thị V. Tức giận vì bị đòi nợ nên Vũ Xuân Th đứng dậy lấy một thanh kiếm bằng kim loại (dài 85 cm, lưỡi kiếm dài 62 cm) treo trên tường, rút kiếm ra khỏi vỏ nói “tôi không nợ nần gì mấy người, các người đừng ép tôi phải trả”. Thấy Th rút kiếm nên có người hô “anh em đâu vào đánh chết nó đi”. Lúc này, Hoàng Anh H đang đứng đối diện, cách Th khoảng 1m nên Th hai tay cầm kiếm vung lên chém một phát từ trên xuống dưới trúng vào đỉnh đầu bên trái của H, sau đó Th tiếp tục chém thêm một phát nữa trúng vào mặt ngoài cẳng tay trái và cằm của Hoàng Anh H. Lê Sỹ Th1 cũng lấy 01 thanh kiếm dài 65 cm treo trên tường, rút kiếm ra khỏi vỏ và nói “chúng mày mà đánh anh tao thì tao đập chết” rồi dơ kiếm về phía Vũ Duy T3 dọa thì T3 dùng tay nắm vào phần lưỡi kiếm giằng co với Th1 nên bị thương nhẹ ở tay. Sau khi chém H, Th cầm kiếm chạy ra ngoài đường thì gặp nhóm người đi cùng Hoàng Anh H nên hai bên đuổi đánh nhau. Vũ Văn T4 nhặt được 01 thanh kiếm dài 65,8 cm phi về phía Th nhưng không trúng nên Th nhặt lấy và cầm 02 thanh kiếm. Th và Th1 cầm kiếm chạy ra đường 32m thì được anh Bùi Nhật Quang chở ra phía sau Trường mầm non thị trấn Mường T, Th vứt 03 thanh kiếm ở mép đường rồi đến cơ quan Công an trình báo. Hoàng Anh H được mọi người đưa đến Trung tâm y tế huyện Mường T cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu và Bệnh viện Việt Đức cấp cứu nhưng do vết thương quá nặng, ngày 16/5/2019 Hoàng Anh H đã tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 27/BKL-TTPY ngày 02/4/2019 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Lai Châu kết luận (đối với thương tích của Hoàng Anh H):

“1. Dấu hiệu chính để giám định:

Vết thương vùng đỉnh chẩm trái hướng kéo dài xuống đỉnh vành tai trái kích thước 21cm x 1cm.

Cằm bên trái có 01 sẹo vết thương, kích thước: 1,5cm x 0,5cm.

Ở 1/3 cẳng tay bên trái có 01 sẹo vết thương nằm ngang so với trục cơ thể, kích thước: 3cm x 1cm.

Hình ảnh vỡ xương thái dương đỉnh chẩm trái Đụng dập tụ máu nhu mô não bên trái tương ứng vùng vỡ xương Tụ máu khoang dưới màng cứng bán cầu đại não trái.

2. Vật gây nên thương tích: Là vật sắc 3. Chiều hướng và đặc điểm kích thước các vết thương: Đã mô tả ở phần thương tích 4. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Hoàng Anh H hiện tại ngày 02/4/2019 là 46% (bốn mươi sáu phần trăm)”.

Sau khi Hoàng Anh H chết, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định, xác định nguyên nhân chết.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 29/BKL-TTPY ngày 16/7/2019 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Lai Châu, kết luận:

“1. Nguyên nhân chết (Hoàng Anh H): Chấn thương sọ não hở/Dập tổ chức não.

2. Cơ chế: Ngoại lực tác động - Dập tổ chức não - Suy đa phủ tạng - Tử vong.

3. Thời gian chết: Khoảng 8 đến 10 giờ.

4. Vật gây nên thương tích: Vật sắc gọn 5. Các dấu vết thương tích đã mô tả ở phần khám ngoài”.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/5/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân Th phạm tội “Giết người”. Áp dụng điểm n khoản 1 điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Xuân Th 17 (Mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/3/2019.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng điều 584, điều 585, điều 586, điều 590, điều 591 Bộ luật dân sự; điều 48 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại đại diện hợp pháp là ông Hoàng Văn Th số tiền là: 421.393.938 (Bốn trăm hai mươi mốt triệu ba trăm chín mươi ba nghìn chín trăm ba mươi tám) đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/5/2020, bị cáo Vũ Xuân Th có đơn kháng cáo với nội xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 03/6/2020, người đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Hoàng Văn Th có đơn kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Hoàng Văn Th rút toàn bộ kháng cáo và xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Vũ Xuân Th.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Vũ Xuân Th cho rằng bản án sơ thẩm có nhiều tình tiết chưa đúng với nội dung vụ án như: nơi xảy ra vụ án không phải là phòng trọ của anh Điêu Văn Vinh, anh Vinh chỉ được bị cáo cho ở nhờ, chủ nhà trọ cũng đã xác nhận cho bị cáo thuê nên đây là chỗ ở hợp pháp của bị cáo nên được pháp luật bảo vệ. Bản thân bị cáo không nợ tiền Vinh, H, T2, T3 nên hành vi bắt ép, đe dọa bị cáo phải trả nợ là cưỡng đoạt tài sản. Bị cáo bị đe dọa, tấn công nguy hiểm đến tính mạng tại nơi ở của bị cáo nên bị cáo mới tấn công lại không nhằm vào anh H và không muốn hại ai vì nếu giết ai thì bị cáo phải chủ động tấn công người đó. Bị cáo chém H là do H tấn công bị cáo và hô đồng bọn đánh chết bị cáo, điều đó thể hiện H muốn giết chết bị cáo tại chỗ ở của bị cáo. Việc bị cáo chém H là theo phản xạ trong hoàn cảnh sắp ngã và bị lùi về phía sau nên bị cáo có quyền tự vệ, phòng vệ khi gặp nguy hiểm. Bị cáo cho rằng hành vi của mình không phạm tội Giết người quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, sau khi được giải thích, bị cáo cho rằng bị cáo không có mục đích giết người bị hại và bị hại cũng có một phần lỗi nên xét xử bị cáo ở khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là phù hợp. Đồng thời, bị cáo cũng trình bày sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã đến Công an thị trấn Mường Tè để trình báo nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” đối với bị cáo là không đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: bị cáo khi bị nhóm của H đe dọa đánh giết, H đã hô “Anh em đâu vào đánh chết nó đi” thì bị cáo buộc phải tự vệ chống trả, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp trong việc gây thương tích cho bị hại, việc bị hại chết là nằm ngoài ý trí mong muốn, nhận thức của bị cáo, bị cáo Th không có động cơ, mục đích tước đoạt tính mạng của bị hại. Trong vụ án, bị hại cũng là người có lỗi, xông vào xô ngã bị cáo, gọi người của bị hại vào đánh, giết bị cáo. Hành vi của bị cáo Th chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích hậu quả làm chết người” theo điểm a khoản 4 điều 134 Bộ luật hình sự hoặc phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự như bị cáo đã trình bày. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thay đổi về tội danh đối với bị cáo và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra, Luật sư còn kiến nghị bỏ lọt tội phạm về hành vi cưỡng đoạt tài sản của Phìn Thị V, Trần Đình H2, Vũ Duy T3, Hoàng Anh H, Đỗ Như T2.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích các tình tiết, tài liệu trong hồ sơ vụ án, có quan điểm:

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với kháng cáo của ông Hoàng Văn Th.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ Xuân Th về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo mức hình phạt 17 năm tù là phù hợp, tương xứng với mức độ và hành vi, hậu quả mà bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên tội danh và hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Vũ Xuân Th.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của luật sư, của bị cáo và của người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm cho rằng bản thân bị cáo không có mục đích giết anh Hoàng Văn H và người bị hại cũng có một phần lỗi nên hành vi của bị cáo có thể cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự hoặc tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả làm chết người do hành vi trái pháp luật của bị hại” theo điểm a khoản 4 điều 134 Bộ luật hình sự. Bị cáo Vũ Xuân Th cho rằng, bản thân bị cáo không nợ tiền và không liên quan đến nhóm của Hoàng Anh H, mặc dù bị cáo đã nhiều lần nhắc đi, nhắc lại xong nhóm của H vẫn không nghe và yêu cầu bị cáo phải trả số tiền 80.000.000 đồng cho V, bị cáo cho rằng nhóm của H có thái độ hung hăng nên bị cáo rút kiếm ra để tự vệ, khi nghe thấy tiếng hô “Anh em đâu tập trung vào đây đánh chết nó đi” thì có khoảng 4 đến 5 người ở bên ngoài cầm gậy xông vào nên bị cáo đã dùng kiếm chém chặn cửa mục đích không cho mọi người ở ngoài xông vào. Do H đẩy bị cáo làm bị cáo ngã ngửa người về phía sau, theo phản xạ bị cáo chém xuống chứ không biết chém vào đâu. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và cho rằng bị cáo không có mục đích giết người và người bị hại cũng có một phần lỗi nên bị cáo phạm tội “Giết người” theo quy định ở khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự như quan điểm bào chữa của luật sư là có căn cứ.

[2] Hội đồng xét xử thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, sau khi nghe phân tích về các tình tiết khách quan của vụ án, bị cáo Vũ Xuân Th đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và thừa nhận hành vi của bị cáo phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của người làm chứng Đỗ Như T2, Vũ Duy T3, Phìn Thị V và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản thực nghiệm hiện trường, Biên bản nhận dạng vật chứng, Biên bản khám nghiệm tử thi và vật chứng thu giữ được, có đủ căn cứ xác định: Do mâu thuẫn trong việc vay mượn tiền giữa Phìn Thị V với bị cáo Vũ Xuân Th. Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 14/3/2019, tại phòng trọ của anh Điêu Văn Vinh, do tức giận việc bị nhóm Hoàng Anh H, Vũ Duy T3, Đỗ Như T2 thúc ép, buộc Vũ Xuân Th phải trả số tiền 80.000.000 đồng cho Phìn Thị V. Bị cáo nghe thấy tiếng hô “anh em đâu vào đánh chết nó đi” và bị đẩy vào người nên bị cáo Vũ Xuân Th đã dùng 01 thanh kiếm có chiều dài 85cm, chém một nhát từ trên xuống trúng đỉnh đầu bên trái của H (khi đó H đứng cách Th khoảng 1m), tiếp đó Th chém tiếp nhát thứ hai trúng vào mặt ngoài cẳng tay và cằm của H. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo phù hợp với Kết luận giám định số 27/BKL-TTPY ngày 02/4/2019 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Lai Châu, thể hiện Hoàng Văn H có vết thương vùng đỉnh chẩm trái hướng kéo dài xuống đỉnh vành tai trái, vỡ xương thái dương đỉnh chấm trái, dập tụ máu nhu mô não bên trái; cằm bên trái có 01 sẹo vết thương; 1/3 cẳng tay bên trái có 01 sẹo vết thương nằm ngang; vật gây nên thương tích: Là vật sắc. Đồng thời phù hợp với Kết luận giám định pháp y về tử thi số 29/BKL-TTPY ngày 16/7/2019 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Lai Châu, kết luận: Nguyên nhân chết của Hoàng Anh H do chấn thương sọ não hở/Dập tổ chức não. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Vũ Xuân Th là đặc biệt nguy hiểm, bị cáo dùng kiếm là hung khí nguy hiểm chém vào vùng đầu người bị hại Hoàng Anh H, là vùng trọng yếu trên cơ thể con người, có thể dẫn đến tử vong. Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ Xuân Th về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, không oan sai nên không có căn cứ để xét xử bị cáo về tội Giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự hoặc tội Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người như đề nghị của luật sư và trình bày của bị cáo trình bày tại phiên tòa.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ; gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của địa phương, làm rạn nứt tình cảm vợ chồng trong một gia đình. Do vậy, đối với bị cáo cần phải có một mức án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Hoàng Văn Th là người đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày: sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo Vũ Xuân Th đã tự nguyện bồi thường thêm cho gia đình người bị hại số tiền 60.000.000 đồng và ông Hoàng Văn Th đã tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, đồng thời ông Th cũng đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt từ 01 đến 02 năm tù đối với bị cáo Vũ Xuân Th. Do ông Hoàng Văn Th tự nguyện rút kháng cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại về phần trách nhiệm dân sự và bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, buộc bị cáo Vũ Xuân Th phải có nghĩa vụ bồi thường cho đại diện gia đình người bị hại có hiệu lực pháp luật; đồng thời, ghi nhận gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thêm số tiền 60.000.000 đồng cho gia đình người bị hại.

[5] Xét kháng cáo của người bị cáo Vũ Xuân Th, Hội đồng xét xử thấy:

Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại, thành khẩn khai báo, gia đình có công với cách mạng, người bị hại cũng có một phần lỗi. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo cho rằng sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an trình báo nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng. Hội đồng xét xử thấy trình bày trên của bị cáo là có căn cứ nên được chấp nhận. Tại phiên tòa, luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Xuân Th xuất trình tài liệu Giấy biên nhận bồi thường thêm cho gia đình người bị hại số tiền 60.000.000 đồng và được đại diện hợp pháp của người bị hại xác nhận là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đồng thời, bị cáo cũng nhận thức được hành vi phạm tội của mình và tỏ thái độ ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Vũ Xuân Th.

[6] Trong vụ án này, tại cấp sơ thẩm bị cáo chưa thực sự thành khẩn, loanh quanh chối tội nhưng cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo đối với bị cáo là có phần khiên cưỡng, chưa đảm bảo có căn cứ; do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy cần nghiêm túc rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm.

[7] Kiến nghị của Hội đồng phúc thẩm: Trong vụ án này, các đối tượng Phìn Thị V, Lê Sỹ Th1, Vũ Duy T3, Đỗ Như T2 có dấu hiệu phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Do vậy, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Lai Châu tiếp tục điều tra, nếu có đủ căn cứ sẽ bị truy tố, xét xử bằng một vụ án hình sự khác.

[8] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân Th được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của ông Hoàng Văn Th là người đại diện hợp pháp của người bị hại; bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS- ST ngày 20/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu về phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Vũ Xuân Th có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 25/11/2020.

[2] Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân Th; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu về hình phạt đối với bị cáo Vũ Xuân Th.

* Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Vũ Xuân Th 16 (Mười sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/3/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[3] Ghi nhận gia đình bị cáo Vũ Xuân Th đã tự nguyện bồi thường cho đại diện gia đình người bị hại số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).

[4] Bị cáo Vũ Xuân Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 559/2020/HS-PT ngày 25/11/2020 về tội giết người

Số hiệu:559/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về