Bản án 556/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 556/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 1126/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2018, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Phước T, sinh năm 1971; HKTT và ngụ tại: 70 đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (có mặt).

- Bị đơn: Bà Nguyễn Dương Lê K, sinh năm 1975; HKTT và ngụ tại: 23 đường T, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 24/9/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn là ông Huỳnh Phước T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Dương Lê K tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1998, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 18/HT-LS, quyển số 01/1998 ngày 25/3/1998. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại địa chỉ số 70 đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Vợ chồng chung sống đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo ông T trình bày là do sự bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt và thường xuyên xảy ra cãi vã. Một phần mâu thuẫn vợ chồng là do bà K không quen với môi trường sống tại Lâm Đồng nên vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi, dẫn đến năm 2003 bà K cùng các con chuyển về sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù đã cố gắng hàn gắn nhưng không được nên vợ chồng ông ly thân từ năm 2003 cho đến nay, mỗi người ở một nơi và không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên ông T yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Dương Lê K.

Về con chung: Ông T khai nhận vợ chồng có ba con chung là Huỳnh Nguyễn Hoài P, sinh ngày 17/12/1997, Huỳnh Nguyễn Thần P1, sinh ngày 11/02/2000 và Huỳnh Nguyễn Thiên P2, sinh ngày 11/02/2000. Do các con chung đều đã trưởng thành và phát triển bình thường nên ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông T khai nhận vợ chồng không có tài sản chung. Về nợ chung: Ông T khai nhận vợ chồng không có nợ chung.

Toà án nhân dân quận Tân Phú đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập đương sự cho bà Nguyễn Dương Lê K nhưng phía bị đơn không có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn: Vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu trên.

- Bị đơn: Vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng như sau: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú nhận xét quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, ông Huỳnh Phước T được ly hôn với bà Nguyễn Dương Lê K. Án phí sơ thẩm ông T chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, sau khi nghị án Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 18/HT-LS, quyển số 01/1998 ngày 25/3/1998 do Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng cấp cho ông Huỳnh Phước T và bà Nguyễn Dương Lê K thì có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Huỳnh Phước T và bà Nguyễn Dương Lê K là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Nay ông T yêu cầu ly hôn, bà K có nơi cư ngụ tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về thủ tục xét xử vắng mặt bà Nguyễn Dương Lê K: Do bà Nguyễn Dương Lê K vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bà Nguyễn Dương Lê K.

[2]. Về yêu cầu của nguyên đơn: Ông Huỳnh Phước T yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Dương Lê K:

Căn cứ lời khai của ông T thấy rằng vợ chồng ông phát sinh mâu thuẫn từ năm 2001, trong cuộc sống vợ chồng có xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng, cãi vã, không thể hàn gắn được dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Vợ chồng ông cũng đã ly thân từ năm 2003 cho đến nay, mỗi người ở một nơi, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau, mạnh ai nấy sống.

Tòa án nhiều lần triệu tập và tiến hành hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà K vắng mặt, không trình bày ý kiến, yêu cầu của mình. Điều này thể hiện bà K không thiết tha trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà K là có thật và đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc ông T yêu cầu được ly hôn với bà K là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.

[3]. Về quan hệ con chung: Ông T khai nhận vợ chồng có ba con chung là Huỳnh Nguyễn Hoài P, sinh ngày 17/12/1997, Huỳnh Nguyễn Thần P1, sinh ngày 11/02/2000 và Huỳnh Nguyễn Thiên P2, sinh ngày 11/02/2000. Do các con chung đều đã trưởng thành và phát triển bình thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Ông T khai nhận vợ chồng không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Ông T khai nhận vợ chồng không có nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5].Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì ông T chịu án phí theo qui định của pháp luật là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Huỳnh Phước T:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Huỳnh Phước T được ly hôn với bà Nguyễn Dương Lê K.

Giấy chứng nhận kết hôn số 18/HT-LS, quyển số 01/1998 ngày 25/3/1998 do Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng cấp cho ông Huỳnh Phước T và bà Nguyễn Dương Lê K hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

- Về quan hệ con chung: Ông T khai nhận vợ chồng có ba con chung là Huỳnh Nguyễn Hoài P, sinh ngày 17/12/1997, Huỳnh Nguyễn Thần P1, sinh ngày 11/02/2000 và Huỳnh Nguyễn Thiên P2, sinh ngày 11/02/2000. Do các con chung đều đã trưởng thành và phát triển bình thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về quan hệ tài sản:

+ Về tài sản chung: Ông T khai nhận vợ chồng không có tài sản chung.

+ Về nợ chung: Ông T khai nhận vợ chồng không có nợ chung.

2/ Về án phí:

- Ông Huỳnh Phước T chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông T đã nộp theo biên lai thu tiền sốAA/2017/0012091 ngày 27 tháng 11 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T đã nộp đủ.

Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3/ Quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 556/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:556/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về