Bản án 55/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Chí Th (tên gọi khác: B), sinh ngày 12/6/1988 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn M, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn lớp: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Th và bà Nguyễn Thị X; vợ, con: Chưa; tiền án: 02 tiền án, tại bản án số 566/2007/HSPT ngày 25/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt Nguyễn Chí Th 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”, ngày 01/9/2009 được đặc xá trở về địa phương, tại bản án số 30/2013/HSST ngày 28/5/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt Nguyễn Chí Th 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, ngày 20/9/2019 chấp hành xong hình phạt; tiền sự: không, Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/7/2020 đến nay - có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chí Th là ông Nguyễn Xuân Kh – Luật sư Văn phòng Luật sư THT – Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

Địa chỉ: số X, đường Y, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Mỹ Tr, sinh năm 1995 – có mặt. Nơi cư trú: Thôn Z, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Minh Q, sinh năm 1988 - có mặt Nơi cư trú: Thôn V, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bà Phạm Thị T, sinh năm 1963 – có mặt Nơi cư trú: Thôn V, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 21/7/2020, chị Nguyễn Thị Mỹ Tr điều khiển xe mô tô biển số 48H2 - 51xx của mình đi từ nhà đến nghĩa trang thôn Z, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để làm cỏ, trồng hoa và thắp hương mộ của chị gái. Thời điểm này, bị cáo Nguyễn Chí Th nhà ở gần nghĩa trang BH, đi bộ một mình cầm theo 01 con dao dài 21,5cm, cán bằng nhựa màu vàng cũng đi đến nghĩa trang để tìm bánh, trái cây ở các ngôi mộ mà người dân dùng làm lễ thắp hương cho người quá cố để ăn. Khi đi đến chỗ chị Tr đang thắp hương thì thấy chỉ có một mình chị Tr nên bị cáo đứng phía sau quan sát, khi chị Tr mở túi xách, bị cáo nhìn thấy bên trong có tiền nên nảy sinh ý định dùng vũ lực để chiếm đoạt tiền của chị Tr. Do đó khi thấy chị Tr đứng dậy đi ra chỗ để xe mô tô đi về thì bị cáo đi theo nhặt 01 viên gạch xây loại 04 lỗ, kích thước 17cm x 7,5cm x 7,5cm đến chặn ngay trước đầu xe mô tô, rồi giơ viên gạch lên đe dọa yêu cầu chị Tr đưa tiền cho mình. Chị Tr hoảng sợ buông xe mô tô ra,cầm túi xách đi lùi lại phía sau, lúc này bị cáo thả viên gạch xuống đất rồi lấy dao mang theo tiến sát lại gần, tiếp tục đe dọa yêu cầu chị Tr đưa tiền cho mình, đồng thời áp sát giật túi xách từ trên tay của chị Tr, nhưng chị Tr giật lại rồi bỏ chạy. Bị cáo đuổi theo dùng tay phải túm tóc chị Tr giữ lại, đồng thời dùng tay trái kẹp cổ, vật ngã xuống đất khống chế chị Tr làm túi xách rơi cách bị cáo và chị Tr khoảng 01 mét, bị cáo dùng tay với lấy túi xách nhưng không tới. Lúc này, chị Tr dùng tay bẻ các ngón tay của bị cáo đang kẹp cổ mình nên bị cáo bỏ tay ra, chị Tr liền đứng dậy nhặt chiếc túi xách của mình. Lúc này biết không thể chống cự được nên chị Tr nói dối với bị cáo, mình sống một mình và bảo bị cáo lên xe để chị Tr chở về nhà đưa tiền thì bị cáo đồng ý và lên xe ngồi sau chị Tr chở về nhà. Khi đi ra tới cổng nghĩa trang sợ bị phát hiện, bị cáo yêu cầu chị Tr phải đi vào đường đất và không được hô “cướp” thì chị Tr đồng ý. Sau đó chị Tr không chở bị cáo về nhà mình, mà chở bị cáo đi về nhà bà Phạm Thị Tự tại thôn V, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk (là mợ của Tr). Đến nhà bà T, Tr điều khiển xe chở bị cáo đi vào sân thì gặp bà T và anh Nguyễn Minh Q con trai bà T đang ở nhà nên Tr nói với bà T “Mợ ơi, thằng này vừa cầm cục gạch chận tiền con” đồng thời quay lại chỉ về phía bị cáo. Thấy vậy, bị cáo Th liền bỏ chạy trốn vào vườn cà phê trước nhà bà T, anh Q đuổi theo nhưng không đuổi kịp. Ngày 22/7/2020, chị Tr đến Cơ quan Công an trình báo sự việc, sau đó hành vi phạm tội của Th bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ phát hiện bắt giữ.

Vật chứng vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ tạm giữ gồm: 01 áo khoác nữ màu đen không có nhãn hiệu; 01 bộ tóc giả màu nâu dài 60cm;

01 viên gạch, loại gạch xây có 04 lỗ, màu nâu, kích thước 17cm x 7,5cm x 7,5cm; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ đậm, hai bên vai có sọc trắng, phía trước ngực trái có chữ CHAMPIONIS LEAGUE; 01 quần đùi bằng vải thun, màu xám đen có in chữ adidas;

01 con dao có chiều dài 21,5cm, lưỡi dao dài 11,5cm, mũi dao nhọn, cán dao bằng nhựa màu vàng dài 10cm có dập chữ KiWi; 01 đôi dép bằng nhựa, màu đen, nhãn hiệu DUWA, size 39.

Bản cáo trạng số 55/CT-VKSBH ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Nguyễn Chí Th về tội “Cướp tài sản” theo điểm d, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ giữ quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận xác định: Do ý thức xem thường pháp luật Nhà nước, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác và động cơ tư lợi cá nhân. Nên vào khoảng 17 giờ 40 phút ngày 21/7/2020, tại nghĩa trang thôn M, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo Nguyễn Chí Th mặc dù đã có hai tiền án về tội Cướp tài sản chưa được xóa tích theo quy định, đã có hành vi dùng dao, viên gạch là vũ khí đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với chị Nguyễn Thị Mỹ Tr nhằm chiếm đoạt tài sản. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo điểm d, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d, h khoản 2 Điều 168; điểm q, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí Th từ 08 năm đến 09 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ đã giao trả cho chị Nguyễn Thị Mỹ Tr là chủ sở hữu hợp pháp các tài sản là 01 áo khoác nữ màu đen không có nhãn hiệu; 01 bộ tóc giả màu nâu dài 60cm.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch, loại gạch xây có 04 lỗ, màu nâu, kích thước 17cm x 7,5cm x 7,5cm; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ đậm, hai bên vai có sọc trắng, phía trước ngực trái có chữ CHAMPIONIS LEAGUE; 01 quần đùi bằng vải thun, màu xám đen có in chữ adidas;

01 con dao có chiều dài 21,5cm, lưỡi dao dài 11,5cm, mũi dao nhọn, cán dao bằng nhựa màu vàng dài 10cm có dập chữ KiWi; 01 đôi dép bằng nhựa, màu đen, nhãn hiệu DUWA, size 39. Đây là công cụ phạm tội và tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo không còn giá trị sử dụng.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chí Th: Nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Nguyễn Chí Th, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị cáo là người có bệnh hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình; bị cáo không được đi học nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm theo điểm q, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điền 54, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt Nguyễn Chí Th với mức hình phạt thấp nhất khung hình phạt.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí Th khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với hành vi mà nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo thừa nhận Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” là đúng. Bị cáo không có ý kiến tranh luận bổ sung ý kiến của người bào chữa cho mình;

Tại phiên tòa, bị hại thừa nhận lời khai của bị cáo tại phiên tòa là đúng và không yêu cầu gì thêm về phần trách nhiệm dân sự.

Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, đương sự không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí Th khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 40 phút ngày 21/7/2020, tại nghĩa trang thôn M, xã BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo đã có hành vi dùng dao, gạch là vũ khí đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với chị Nguyễn Thị Mỹ Tr nhằm chiếm đoạt tài sản, nên Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” là đúng, bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo biết được tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đều bị xử lý bằng pháp luật. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật và động cơ tư lợi cá nhân, bị cáo đã có hành vi dùng dao, gạch là vũ khí đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với chị Nguyễn Thị Mỹ Tr nhằm chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Điểm d, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự quy định:

“1....

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:…

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;…

h) Tái phạm nguy hiểm”.

[3] Xét tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn gây nên những ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo có 02 tiền án về tội cướp tài sản, tại bản án số 566/2007/HSPT ngày 25/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt Nguyễn Chí Th 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”, ngày 01/9/2009 được đặc xá trở về địa phương, tại bản án số 30/2013/HSST ngày 28/5/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt Nguyễn Chí Th 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, ngày 20/9/2019 chấp hành xong hình phạt. Bị cáo chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người có bệnh hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình; bị cáo không được đi học nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm q, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định để bị cáo học tập, cải tạo trở thành người công dân ích cho gia đình và xã hội đồng thời góp phần giáo dục phòng ngừa tội phạm chung và riêng trong toàn xã hội.

[7] Xét quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Cướp tài sản, đề nghị hình phạt áp dụng, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Xét ý kiến bào chữa của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 để xử phạt bị cáo với hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là chưa nghiêm khắc, chưa tương xứng với tính chất, mức độ mà hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[10] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ đã giao trả cho chị Nguyễn Thị Mỹ Tr là chủ sở hữu hợp pháp các tài sản là 01 áo khoác nữ màu đen không có nhãn hiệu; 01 bộ tóc giả màu nâu dài 60cm theo Quyết định xử lý vật chứng số 22 ngày 05/11/2020. Xét thấy việc giao trả là phù hợp với khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 viên gạch, loại gạch xây có 04 lỗ, màu nâu, kích thước 17cm x 7,5cm x 7,5cm; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ đậm, hai bên vai có sọc trắng, phía trước ngực trái có chữ CHAMPIONIS LEAGUE; 01 quần đùi bằng vải thun, màu xám đen có in chữ adidas; 01 con dao có chiều dài 21,5cm, lưỡi dao dài 11,5cm, mũi dao nhọn, cán dao bằng nhựa màu vàng dài 10cm có dập chữ KiWi; 01 đôi dép bằng nhựa, màu đen, nhãn hiệu DUWA, size 39. Đây là công cụ phạm tội và tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Chí Th (tên gọi khác: B) phạm tội: “Cướp tài sản”.

Căn cứ vào điểm d, h khoản 2 Điều 168; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí Th: 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 23/7/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ đã giao trả cho chị Nguyễn Thị Mỹ Tr là chủ sở hữu hợp pháp các tài sản là 01 áo khoác nữ màu đen không có nhãn hiệu; 01 bộ tóc giả màu nâu dài 60cm theo Quyết định xử lý vật chứng số 22 ngày 05/11/2020.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch, loại gạch xây có 04 lỗ, màu nâu, kích thước 17cm x 7,5cm x 7,5cm; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ đậm, hai bên vai có sọc trắng, phía trước ngực trái có chữ CHAMPIONIS LEAGUE; 01 quần đùi bằng vải thun, màu xám đen có in chữ adidas; 01 con dao có chiều dài 21,5cm, lưỡi dao dài 11,5cm, mũi dao nhọn, cán dao bằng nhựa màu vàng dài 10 cm có dập chữ KiWi; 01 đôi dép bằng nhựa, màu đen, nhãn hiệu DUWA, size 39.

(Đặc điểm, số lượng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk).

*Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Chí Th phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

*Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội cướp tài sản

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về