Bản án 55/2020/HSST ngày 12/11/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TNH N

BẢN ÁN 55/2020/HSST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2020/HSST ngày 14/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H (Tên gọi khác không), sinh năm 1994; tại xã G, huyện V, tỉnh N; Nơi cư trú thôn G, xã G, huyện V, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị L; có vợ Lường Thị T và có 01 con sinh năm 2017; tiền án: Không;

Tiền sự: Quyết định số 10/QĐ-XPHC ngày 22/02/2020, Công an xã G, huyện V, tỉnh N xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi "Đánh bạc".

Bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Trần Quang Đ, sinh năm 1977; Nơi cư trú thôn A, xã G, huyện V, tỉnh N. (Vắng mặt).

Anh Hoàng Đăng H, sinh năm 1976; Nơi cư trú xóm T, xã Y, huyện Ý, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

Anh Đoàn Văn M, sinh năm 1983; Nơi cư trú xóm 5, xã G, huyện V, tỉnh N. (Vắng mặt).

Anh Nguyễn Hồng N, sinh năm 1994; Nơi cư trú thôn G, xã G, huyện V, tỉnh N. (Vắng mặt).

* Người làm chứng:

Anh Đinh Văn Đ. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trưa ngày 29/7/2020, Nguyễn Văn H cùng với Trần Quang Đ, Đoàn Văn M và Hoàng Đăng H ăn cơm tại khu chăn nuôi nhà Đ ở thôn A, xã G, huyện V. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Trần Quang Đ nói với mọi người: “Anh em ở lại ngồi chơi tí, tạnh mưa hãy về”, sau đó quay sang nói với H: “Mày đi mua bài về mấy chú cháu mình chơi” - ý rủ H, M và H đánh bài ăn tiền, mọi người đều đồng ý. Sau đó, H đi ra quán tạp hóa mua 01 bộ tú lơ khơ 52 quân và 02 bao thuốc lá đem về khu chăn nuôi nhà Đ rồi cùng với Đ, M và H ngồi xuống chiếc chiếu đã trải sẵn từ trước để đánh bạc bằng hình thức đánh Liêng được thua bằng tiền, quy định mỗi ván thấp nhất là 10.000 đồng, cao nhất là 100.000 đồng. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi H, Đ, M và H đang đánh bạc thì bị tổ công tác Công an huyện V phối hợp với Công an xã G kiểm tra phát hiện. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 2.780.000 đồng, 01 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếc chiếu nhựa; Thu giữ của Trần Quang Đ 01 ví giả da màu đen và số tiền 3.600.000 đồng; thu của Nguyễn Văn H số tiền 1.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, vỏ màu hồng, lắp số thuê bao 034760****; Thu của Đoàn Văn M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu xanh, loại bàn phím, lắp số thuê bao 03987****; Thu của Hoàng Đăng H 01 ví giả da màu nâu, số tiền 3.400.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, vỏ màu đen, loại bàn phím, lắp số thuê bao 05698****.

Quá trình điều tra xác định: Tổng số tiền các đối tượng Trần Quang Đ, Nguyễn Văn H, Đoàn Văn M và Hoàng Đăng H đánh bạc bằng hình thức đánh “Liêng” được thua bằng tiền ngày 29/7/2020 là 2.780.000 đồng (là số tiền thu giữ tại chiếu bạc).

Tại bản Cáo trạng số 56/CT-VKS-GV ngày 12/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Nguyễn Văn H ra trước Tòa án nhân dân huyện V để xét xử về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xác nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phát biểu luận tội đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Đánh bạc”; Đề nghị áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 đến 15 tháng Cải tạo không giam giữ; thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Khấu trừ từ 10% đến 15% thu nhập hàng tháng của Nguyễn Văn H để sung quỹ Nhà nước trong thời gian chấp hành án.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo trong thời gian cải tạo. Phạt tiền bổ sung đối với Nguyễn Văn H từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng;

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 2.780.000 đồng.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếu nhựa thu giữ tại chiếu bạc, là công cụ dùng vào việc phạm tội và vật chứng không có giá trị.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H số tiền 1.000.000 đồng, là số tiền không liên quan đến việc phạm tội, nhưng vẫn tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với biên bản vi phạm hành chính, phù hợp với vật chứng của vụ án đã được thu hồi, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Văn H là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” chưa được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong khoảng thời gian từ 13 giờ 00 phút ngày 29/7/2020, tại khu chăn nuôi nhà ông Trần Quang Đ ở thôn A, xã G, huyện V, bị cáo H lại sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân đánh bài dưới hình thức đánh “Liêng” được thua bằng tiền cùng với Trần Quang Đ, Hoàng Đăng H và Đoàn Văn M đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, bị Công an huyện V, tỉnh N bắt quả tang với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc 2.780.000 đồng.

Bộ luật Hình sự quy định:

Điều 321. Tội đánh bạc

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

… .

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

[3]. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã nêu trên là phạm tội "Đánh bạc", được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự; nhu Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh N truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng được pháp luật hình sự bảo vệ.

Đánh bạc đang là một tệ nạn nguy hiểm, bị gia đình, xã hội lên án, Nhà nước ta đang ra sức loại trừ. Vì đánh bạc mà nhiều gia đình bị khánh kiệt, nợ nần chồng chất, nó cũng là nguyên nhân gây nên một loạt các loại tội phạm khác. Bị cáo đã thành niên, có gia đình vợ con, nhưng không chịu tu chí làm ăn lương thiện mà lại tham gia đánh bạc kiếm tiền bất chính. Hành vi của bị cáo bị chính gia đình bị cáo lên án, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn. Vì vậy, cần phải có biện pháp xử lý thật nghiêm minh, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và nâng cao công tác phòng ngừa chung, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Mức hình phạt áp dụng được căn cứ vào tính chất tội phạm, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án để quyết định cho phù hợp.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa, đó là: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[7]. Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn H có một tiền sự.

[8]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức độ tham gia vào việc thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo. Khấu trừ 10% thu nhập hàng tháng theo biên bản xác minh thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Văn H ngày 07/9/2020, là 3.000.000 đồng/tháng thành tiền là 300.000 đồng/tháng, theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự. Phạt bổ sung thêm đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Cũng đủ điều kiện để bị cáo học tập, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[9]. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên Tòa đã xác định số tiền bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 2.780.000 đồng. Cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếu nhựa thu giữ tại chiếu bạc, là công cụ dùng vào việc phạm tội và vật chứng không có giá trị. Do vậy, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 1.000.000 đồng thu của Nguyễn Văn H. Quá trình điều tra xác định là tiền mà H lao động mà có, không sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy, cần trả lại cho H, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền 7.000.000 đồng (gồm 3.600.000 đồng thu của Trần Quang Đ và 3.400.000 đồng thu của Hoàng Đăng H), quá trình điều tra xác định là tiền mà Đ và H lao động mà có, không sử dụng vào việc đánh bạc. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại số tiền trên cho Đ và H, là phù hợp.

Đối với 01 ví giả da màu đen thu của Trần Quang Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu xanh, loại bàn phím, lắp số thuê bao 03987**** thu của Đoàn Văn M; 01 ví giả da màu nâu và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, vỏ màu đen, loại bàn phím, lắp số thuê bao 05698**** thu của Hoàng Đăng H. Quá trình điều tra xác định các đồ vật, tài sản trên là tài sản hợp pháp của Đ, M và H, không sử dụng vào việc đánh bạc. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại các đồ vật, tài sản trên cho Đ, M và H, là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, vỏ màu hồng, lắp số thuê bao 034760**** thu của Nguyễn Văn H. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại trên là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Hong N, sinh năm 1994, trú tại thôn G, xã G, huyện V cho H mượn làm phương tiện liên lạc, H không sử dụng vào việc đánh bạc. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh N, là phù hợp.

[10]. Trong vụ án này, còn có Trần Quang Đ, Hoàng Đăng H và Đoàn Văn M tham gia đánh bạc ngày 29/7/2020 cùng với Nguyễn Văn H, với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 2.780.000 đồng. Tuy nhiên, trước khi thực hiện hành vi đánh bạc Đ, H và M đều chưa có tiền án, tiền sự về tội “Đánh bạc”, và tội “Tổ chức đánh bạc” hoặc “Gá bạc”; nên hành vi nêu trên của các đối tượng chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Công an huyện V ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền) đối với Trần Quang Đ, Hoàng Đăng H và Đoàn Văn M, là phù hợp.

[11]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (Mười hai) tháng Cải tạo không giam giữ; thời gian chấp hành hình phạt Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Khấu trừ 10% thu nhập trong 12 (Mười hai) tháng, mỗi tháng là 300.000 đồng/tháng. Phạt tiền bổ sung 10.000.000 (Mười triệu) đồng sung ngân sách Nhà nước.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo trong thời gian cải tạo.

2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 2.780.000 đồng.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 01 chiếu nhựa thu giữ tại chiếu bạc, là công cụ dùng vào việc phạm tội và vật chứng không có giá trị.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H số tiền 1.000.000 đồng, là số tiền không liên quan đến việc phạm tội, nhưng vẫn tiếp tục quản lý đế đảm bảo thi hành án. (Số tiền tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước và số tiền trả lại cho bị cáo gửi tại tài sản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Đặc điểm các vật chứng tịch thu tiêu hủy, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/10/2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự”.

3. Về án phí:

Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 (Hai hăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HSST ngày 12/11/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:55/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về