Bản án 55/2020/HS-ST ngày 09/04/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 09/04/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 09 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2020/HSST-QĐ ngày 25 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Vĩnh L. Sinh ngày 04 tháng 11 năm 1990 tại tỉnh L. Hộ khẩu thường trú : 25/6/1A đường 641, ấp C, xã P, huyện C, Tp.H; Nơi cư trú: 5/1 tổ 4, ấp 3, xã X, huyện H, Tp.H; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Đức T và bà: Nguyễn Thị T; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 15/10/2019 Bùi Vĩnh L hẹn gặp tên Chùa (không rõ lai lịch) tại Quán cà phê K địa chỉ 1/9E đường N, ấp H, xã B, huyện H, Tp.H để trao đổi mua xe gắn máy Exciter hiệu Yamaha biển số 93F1-256.48. Tại đây L biết chiếc xe này không có giấy tờ đăng ký, không rõ nguồn gốc, xe do phạm tội mà có, L đã đồng ý mua xe với giá 7.000.000 đồng để nhằm mục đích về rã bán phụ tùng. Sau khi mua xe, L điều khiển chiếc xe đến quán ăn trên đường S ăn trưa cùng bạn là Gịp Lý P và Lê Quốc B. Khoảng 13 giờ cùng ngày Bùi Vĩnh L điều khiển xe máy Exciter biển số 93F1-256.48 chở Gịp Lý P đi về nhà, khi đến trước nhà số 63/5G ấp X1, xã X, huyện H thì bị Đội Cảnh sát hình sự phối hợp Công an xã X kiểm tra đưa về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, Bùi Vĩnh L thừa nhận hành vi tiêu thụ tài sản 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, dung tích 134, màu xám đen cam, biển số 93F1-256.48 do người khác phạm tội mà có từ đối tượng tên Chùa (chưa rõ nhân thân lai lịch).

Vật chứng thu giữ:

- 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, dung tích 134, màu xám đen cam, biển số 93F1-256.48 qua xác minh do ông Vy Văn V đứng tên chủ sở hữu. Anh Vy Văn H (sinh năm 1996) là con trai ông Vy Văn V là người sử dụng xe máy này và bị mất trộm tại nhà trọ số 434/18 đường P, phường 9, quận G, Tp.H ngày 15/10/2019 nên Cơ quan điều tra Công an huyện H đã thông báo và chuyển giao cho Công an quận G, Tp.H tiếp nhận xử lý theo thẩm quyền (BL 51).

- 01 ĐTDĐ Iphone 6S màu trắng bạc và 01 ĐTDĐ Iphone 7 Plus màu đen thu giữ của Bùi Vĩnh L. L khai điện thoại mua để sử dụng liên lạc với gia đình và bạn bè, Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã trả lại cho Bùi Vĩnh L (BL 58).

- 01 ĐTDĐ OPPO màu đen thu giữ của Bùi Vĩnh L. Lâm khai điện thoại sử dụng liên lạc với tên Chùa để mua bán xe (CQĐT đang tạm giữ).

Kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản xác định xe gắn máy biển số 93F1-256.48 trị giá 25.000.000 đồng.

Đối với tên Chùa (chưa rõ lai lịch) Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Gịp Lý P là người đi cùng L, trước đó P đến quán ăn trên đường S cùng ăn trưa với L. Lúc L và tên Chùa gặp nhau trao đổi mua bán xe P không có mặt và P không biết việc L mua xe máy do người khác phạm tội mà có từ đối tượng tên Chùa. Lời khai của P phù hợp với lời khai của L.

Tại bản Cáo trạng số 40/CT-VKS-HS ngày 25/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Bùi Vĩnh L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bùi Vĩnh L tuy không hứa hẹn trước nhưng đã có hành vi tiêu thụ tài sản là chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, dung tích 134, màu xám đen cam, biển số 93F1-256.48 biết rõ tài sản là do phạm tội mà có. Hành vi của L đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Viện Kiểm sát quyết định truy tố đối với bị cáo Bùi Vĩnh L về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Bị cáo L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. Tình tiết tăng nặng: không có. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Vĩnh L từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với 01 ĐTDĐ OPPO màu đen.

Đối với 01 xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, dung tích 134, màu xám đen cam, biển số 93F1-256.48 Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã chuyển giao cho Công an quận G, Tp.H tiếp nhận xử lý theo thẩm quyền nên không xem xét lại.

Đối với 01 ĐTDĐ Iphone 6S màu trắng bạc và 01 ĐTDĐ Iphone 7 Plus màu đen thuộc quyền sở hữu của bị cáo dùng để liên lạc gia đình, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hóc Môn đã trả lại cho Bùi Vĩnh L nên không xem xét lại.

Tại phiên tòa, bị cáo L nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất để bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay qua phần xét hỏi và tranh tụng công khai, bị cáo Bùi Vĩnh L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo L thừa nhận nhằm mục đích tư lợi muốn kiếm tiền nên bị cáo đã mua chiếc xe gắn máy Exciter hiệu Yamaha biển số 93F1-256.48 do người khác phạm tội mà có từ đối tượng tên Chùa không rõ lai lịch. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H. Do đó, nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo Bùi Vĩnh L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo L là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức rất rõ tài sản không có giấy tờ đăng ký, không rõ nguồn gốc, do phạm tội mà có nhưng vì mục đích tư lợi muốn kiếm nhiều tiền nên bị cáo đã đồng ý mua xe với giá rẻ để kiếm lời. Bằng hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, tiếp tay cho những hành vi phạm tội khác làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và tạo ra một dư luận không tốt trong nhân dân. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trái pháp luật do mình gây ra.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét thêm về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để có hình phạt tương xứng.

Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng: không có. Do bị cáo L có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù có thời hạn và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao về cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ mang tính răn đe, giúp bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

[5] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 323 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo đang ở cùng gia đình, hiện tại bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập và điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ 01 ĐTDĐ OPPO màu đen thu giữ của Lâm là phương tiện L liên lạc với tên Chùa để thỏa thuận mua bán xe. Do đó, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, dung tích 134, màu xám đen cam, biển số 93F1-256.48 Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã chuyển giao cho Công an quận G, Tp.H tiếp nhận xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định pháp luật nên không xem xét lại.

Đối với 01 ĐTDĐ Iphone 6S màu trắng bạc và 01 ĐTDĐ Iphone 7 Plus màu đen thuộc quyền sở hữu của bị cáo dùng để liên lạc gia đình, Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã trả lại cho Bùi Vĩnh L là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét lại.

[7] Về án phí: bị cáo L phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Bùi Vĩnh L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

1/. Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Vĩnh L 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Bùi Vĩnh L cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú (Ủy ban nhân dân xã X, huyện H, Tp.H) để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2/. Áp dụng các Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 ĐTDĐ OPPO màu đen theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 09/LNK-CSĐT-CSHS ngày 20/12/2019 của Cơ quan CSĐT Công an huyện H và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/02/2020.

3/. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Bùi Vĩnh L phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 4/. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích chế định án treo đối với bị cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

448
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HS-ST ngày 09/04/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về