Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC 

BẢN ÁN 55/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 346/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXX- ST ngày 26 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2020/QĐHPT- HNGĐ ngày 14/12/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1977 (có đơn vắng mặt)

Bị đơn: Ông Thái M, sinh năm 1973 (vắng mặt).

Cùng trú tại: xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà L và ông Thái M tự nguyện chung sống và kết hôn với nhau, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân (UBND) xã Tiến H, thị xã Đồng Xoài (nay là thành phố Đồng Xoài), tỉnh Bình Phước ngày 22/6/2001. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông M hay nhậu say về nhà chửi vợ, con, không chăm lo cho gia đình, đôi khi còn đánh bà L nhưng chưa gây thương tích gì lớn. Mặc dù bà L đã nhiều lần khuyên can, cho cơ hội nhưng ông M không thay đổi, từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không còn thương yêu nhau. Nay bà L nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được, sống chung nhưng không còn tình cảm với M nữa, không mang lại hạnh phúc cho nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà L được ly hôn với ông M.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà L và ông M có 03 con chung: Thái Nguyễn T, sinh ngày 01/02/2002; Thái Nguyễn Th, sinh ngày 17/9/2004 và Thái Nguyễn Minh H, sinh ngày 14/8/2015. Do cháu T đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, riêng cháu Th và cháu H bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Công việc của bà L hiện nay là làm nhân viên tư vấn tài chính cho Công ty bảo hiểm Hnwha life và buôn báo quần áo ngoài chợ Đồng Xoài, thu nhập bình quân mỗi tháng 12 triệu đồng, thời gian làm giờ hành chính nên đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng các con. Vì vậy không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, cho vay và nợ chung: Bà L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Thái M vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn ông M đã được triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện theo quy định tại điều 70, 72, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L, cho bà L được ly hôn với ông Thái M; Giao con chung Thái Nguyễn Th, sinh ngày 17/9/2004 và Thái Nguyễn Minh H, sinh ngày 14/8/2015 cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông M không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản và vay, nợ chung: Bà L không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; Án phí Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Xác định đây là vụ án Ly hôn” do bà Nguyễn Thị L khởi kiện, bị đơn là ông Thái M cư trú tại ấp 6, xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 36 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Về việc vắng mặt đương sự: Ngày 06/11/2020 nguyên đơn bà Nguyễn Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, việc vắng mặt của bà Len là hợp lệ. Bị đơn ông Thái M trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng ông M vẫn vắng mặt không có lý do. Việc ông M không đến Tòa để tham gia tố tụng là đương nhiên từ bỏ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ quy định tại Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị L và ông Thái M tự nguyện chung sống với nhau và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Tiến H, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (nay là thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước), vào sổ đăng ký kết hôn số 48, ngày 22/6/2001. Căn cứ điều 8 và điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình thì đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của bà L thì thời gian đầu bà L và ông M chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông M hay nhậu say về nhà chửi vợ, con, không chăm lo cho gia đình, đôi khi còn đánh bà L nhưng chưa gây thương tích gì lớn. Mặc dù bà L đã nhiều lần khuyên can, cho cơ hội nhưng ông M không thay đổi, từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không còn thương yêu nhau. Bà L nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể giải quyết được, cuộc sống chung nhưng không còn tình cảm, không mang lại hạnh phúc cho nhau nên có nguyện vọng được ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án mở phiên hòa giải nhiều lần để tạo điều kiện cho hai bên hàn gắn tình cảm, đoàn tụ gia đình nhưng bị đơn ông M vắng mặt không có lời trình bày thể hiện ý chí của mình, nguyên đơn bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn. Cho thấy tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông M là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà L.

Về con chung: Bà L và ông M có 03 con chung: Thái Nguyễn T, sinh ngày 01/02/2002, Thái Nguyễn Th, sinh ngày 17/9/2004 và Thái Nguyễn Minh H, sinh ngày 14/8/2015.

Xét thấy, theo yêu cầu của bà L thì cháu Thái Nguyễn T đã trưởng thành nên bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với cháu Th tại biên bản lấy lời khai ngày 21/10/2002 của Tòa án cháu có nguyện vọng được ở với bà L; riêng cháu H hiện nay chưa đủ 07 tuổi. Ông M biết bà L có nguyện vọng được nuôi các con nhưng không có ý kiến phản đối, không đến làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án là tự từ bỏ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Bà Nguyễn Thị L cho rằng hiện nay bà làm nhân viên tư vấn tài chính cho Công ty bảo hiểm Hnwha life và buôn báo quần áo ngoài chợ Đồng Xoài, thu nhập bình quân mỗi tháng 12 triệu đồng, thời gian làm giờ hành chính nên đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng các con. Xét đây là sự tự nguyện của bà L nên chấp nhận yêu cầu và giao con chung cho bà L trực tiếp trông nom chăm sóc, giáo dục.

Cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản và cho vay, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét. [3].Án phí sơ thẩm: Bà L phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4].Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 36, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Len về việc “Tranh chấp ly hôn”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Thái Minh Lân.

2. Về con chung: Giao cháu Thái Nguyễn Th, sinh ngày 17/9/2004 và Thái Nguyễn Minh H, sinh ngày 14/8/2015 cho bà L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông M đến khi có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con nếu có căn cứ cho rằng mình hoặc bên kia không đáp ứng được quyền lợi cho con.

3. Về chia tài sản, cho vay và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0025165 ngày 02/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

5.Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:55/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về