Bản án 55/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BC, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 55/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã BC, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 48/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đoàn D, sinh ngày 15/5/2003, tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú tại: Ấp Nhà MA, xã Khánh H, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1965 và bà Sơn Thị H1, sinh năm 1969; gia đình bị cáo có 03 anh chị em, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm: 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 11/12/2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Đoàn D:

1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965 (cha ruột của bị cáo). Có mặt;

2. Bà Sơn Thị H1, sinh năm 1969 (mẹ ruột của bị cáo). Có mặt;

Cùng hộ khẩu thường trú: Ấp Nhà MA, xã Khánh H, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; cùng chỗ ở: Khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

 Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Trọng T – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị hại: Cháu Nguyễn Thị Lan T, sinh ngày 28/9/2005; trú tại: Khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1984 (mẹ ruột của bị hại). Có mặt;

2. Ông Nguyễn Tuấn K, sinh năm 1987 (cha ruột của bị hại). Có mặt.

Cùng trú tại: Khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Người làm chứng:

1. Trần Hoài A, sinh ngày 02/12/2002;

Người đại diện hợp pháp của Trần Hoài A: Bà Trần Thị Thu H (không rõ năm sinh);

2. Trần Văn T1, sinh ngày 12/8/2002;

Người đại diện hợp pháp của Trần Văn T1: Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1979;   

 3. Thạch G, sinh ngày 27/6/2001;

Người đại diện hợp pháp của Thạch Giải: Bà Thị Sách T, sinh năm 1974;

4. Lâm Tấn P, sinh năm 2004;

Người đại diện hợp pháp của Lâm Tấn P: Ông Lâm Hoàng N, sinh năm 1983;

5. Nguyễn Văn N, sinh năm 2002;

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn N: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1976.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 10/12/2018 Nguyễn Đoàn D đi bộ từ nhà trọ Trần Văn L thuộc khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC đến nhà bạn là Trần Hoài A ở phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương để chơi. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, D và Ân cùng nhóm bạn Lâm Tấn P, Thạch G, Lê Đức V, Trần Văn T1 (Giang), Nguyễn Văn N tổ chức ăn uống tại thềm nhà A. Đến 19 giờ cùng ngày thì cả nhóm uống hết 01 lít rượu. Lúc này, N nhìn thấy Nguyễn Thị Lan T đạp xe đạp ngang qua nhà A thì N kêu T vào chơi. Nghe N gọi thì T đi vào và ngồi cạnh Nguyễn Đoàn D. Đến 20 giờ 10 phút cùng ngày, D đi bộ ra đường đất đỏ và đi qua hàng rào vườn cao su trước nhà của A đi vệ sinh. Sau đó D quay lại đường đất đỏ trước nhà A đứng và gọi T ra nói chuyện với D. T đi ra chỗ D. Lúc này, D nảy sinh ý định quan hệ tình dục với T nên D nói với T: “cho anh chơi cái nhá” thì T lắc đầu, D liền dùng tay bế xốc T lên và bế T đi ra bãi đất trống gần đó, T kêu D “thả ra, thả ra” nhưng D không thả mà nạt T: “im đi” thì T im lặng để D bế đi đến cuối bãi đất trống, sát bờ tường của dãy trọ, cách đường đất đỏ khoảng 30 mét. Đến đây, D bỏ T xuống bãi cỏ và nói: “Cho anh chơi cái nhá” thì T không đồng ý, T kêu D thả T ra, lúc này D liền đè T nằm xuống bãi cỏ, tay trái D bịt miệng của T lại, tay phải D cởi áo ngoài của T, vén áo ngực của T lên cổ, tiếp tục D cởi quần Jean (ngắn) và quần lót của T ra, thì T chống cự lại và dùng 02 chân đạp trúng vào bụng của D một cái, D không dùng tay bịt miệng của T nữa mà tự cởi quần lửng và quần lót của D rồi nằm đè lên người Trinh, T kêu D “buông ra” thì D tiếp tục dùng tay bịt miệng T lại và nói: “im đi” rồi D dùng hai chân của mình đè hai đùi của T banh ra, D dùng tay phải cầm dương vật đang cương cứng cho vào âm đạo của T để quan hệ tình dục, quan hệ được 05 phút thì D rút dương vật ra và xuất tinh xuống bãi cỏ. Sau đó A, N và T1 ra ngoài đi vệ sinh thì thấy D đang nằm đè trên người T, cả hai đang trong trạng thái không mặc quần áo, thấy vậy nên A đã hỏi D: “mày làm cái gì vậy D” và D nói lại: “mày đi vào đi”, sau đó D và T tự mặc quần áo, D quay trở lại nhà A chơi, T đạp xe đạp về. Khi về D có nói với T không được kể lại sự việc cho ai biết. Sau khi T về nhà kể lại sự việc T bị D giao cấu trái ý muốn cho bà Nguyễn Thị L (mẹ ruột) nghe, bà L đến Công an phường TĐ trình báo sự việc.

Theo giấy chứng nhận thương tích số 31/CN ngày 11/12/2018 của Trung tâm Y tế thị xã BC xác định: Toàn thân không trầy xước, âm hộ viêm đỏ, màng trinh rách nhiều vị trí 01 giờ, 03 giờ rỉ máu, 09 giờ, 11 giờ.

Ngày 12/12/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã BC trưng cầu giám định số: 27/QĐ trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương tiến hành trưng cầu giám định tổn thương bộ phận sinh dục đối với Nguyễn Thị LAN T. Tại Bản kết luận Pháp y về tình dục số 443/2018/GĐPY ngày 12/12/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương kết luận: âm hộ, tầng sinh môn không trầy xước. Màng T dạng răng cưa, có dấu rách mới ở vị trí 01 giờ, 03 giờ, 9 giờ, 11 giờ đến gần sát chân màng trinh, còn dấu bầm và ít máu dợt.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC, tỉnh Bình Dương thu thập giấy khai sinh của Nguyễn Thị Lan T thể hiện sinh ngày 28/9/2005 và được đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân phường TĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương vào ngày 29/11/2005, tuy nhiên hồ sơ khai sinh không có giấy chứng sinh của Nguyễn Thị LAN T. Đối với Nguyễn Đoàn D, theo lý lịch bị can, lời khai của D và cha mẹ ruột thì D sinh ngày 15/5/2003, tuy nhiên D không có hồ sơ khai sinh. Do đó Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu số 34/QĐ và quyết định số 35/QĐ trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai giám định độ tuổi của Nguyễn Đoàn D và Nguyễn Thị LAN T. Tại Bản kết luận giám định Pháp y về độ tuổi số: 1066/ĐT/2018 ngày 04/01/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận: Nguyễn Thị Lan T có độ tuổi là 14 tuổi 06 tháng (+/- 6 tháng) kể từ ngày giám định 24/12/2018. Tại Bản kết luận giám định Pháp y về độ tuổi số: 1067/ĐT/2018 ngày 04/01/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận: Nguyễn Đoàn D có độ tuổi là 15 tuổi 06 tháng (+/- 6 tháng) kể từ ngày giám định 24/12/2018.

Tại bản Cáo trạng số 67/CT-VKSBC ngày 14/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Đoàn D về tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa:

- Trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Đoàn D về tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đoàn D mức án từ 03 năm đến 04 năm tù; về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc hồng; 01 quần jean mà xanh; 02 quần lót nam màu xám; 01 áo màu cam.

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả và thừa nhận hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Tuấn K, bà Nguyễn Thị L cùng thống nhất và không có ý kiến gì đối với bản Cáo trạng số 67/CT-VKSBC ngày 14/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC về việc truy tố bị cáo về tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng ý với bản Kết luận Pháp y về tình dục số: 443/2018/GĐPY ngày 12/12/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương, các bản Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số: 1066/ĐT/2018 và 1067/ĐT/2018 ngày 04/01/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đồng ý nhận tiền bồi thường của bị cáo với tổng số tiền là 20.000.000 đồng và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm bất cứ khoản nào khác. Đồng thời xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Thống nhất với bản Cáo trạng số: 67/CT-VKSBC ngày 14/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC về việc truy tố bị cáo về tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Đồng thời thống nhất với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị. Ngoài ra, bị cáo là người dưới 16 tuổi, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp để tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập với cộng đồng.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã BC, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã BC trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi tố tụng của người bào chữa: Trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo đồng ý và không có ý kiến gì về việc tham gia bào chữa của người bào chữa. Do đó, hành vi tố tụng của người bào chữa là đúng, phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản Cáo trạng đã mô tả, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào khoảng 20 giờ 10 phút, ngày 10/12/2018, tại bãi đất trống thuộc khu phố 2, phường TĐ, thị xã BC, bị cáo có hành vi dùng tay bịt miệng, đe dọa bị hại Nguyễn Thị LAN T để thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái với ý muốn của bị hại.

Hành vi dùng vũ lực để thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái với ý muốn của bị hại đã đủ dấu hiệu cấu thành tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng số 67/CT-VKSBC ngày 14/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi dùng vũ lực để giao cấu trái với ý muốn của bị hại là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, danh dự, nhân phẩm và sức khoẻ của người khác.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , không những xâm pham đến sức khỏe, danh dư, nhân phâm của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến các hoạt động bình thường của bị hại và còn gây mât trât tư tri an tại địa phương. Do đó, cân phải xư phat bi cao môt mưc an thât nghiêm , tương ứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục va phong ngưa chung.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tại phiên tòa, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại đã xin bãi nại cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn phải nghỉ học từ lúc nhỏ, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Do đó, cần áp dụng các Điều 91, khoản 2 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Xét mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm Sát đề nghị áp dụng là phù hợp và tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xét đề nghị của người bào chữa là phù hợp, có căn cứ nên chấp nhận.

 [8] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo đã bồi thường cho bị hại tổng số tiền là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

 [9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc hồng; 01 quần jean mà xanh; 02 quần lót nam màu xám; 01 áo màu cam là vật chứng của vụ án nhưng không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 142; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 2 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đoàn D phạm tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đoàn D 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/12/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc hồng; 01 quần jean mà xanh; 02 quần lót nam màu xám; 01 áo màu cam. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 4 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Bế Cát với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã BC).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Đoàn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

882
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

Số hiệu:55/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về