Bản án 55/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 55/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 236/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148A/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 96/2019/QĐST-HPT ngày 03/9/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đổ Minh H, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 392C, ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đ. Tạm trú: Số 186, ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Đ (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Đào Kim D, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 392C, ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đ. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải anh H là nguyên đơn trình bày: Anh H và chị D có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn năm 2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là không hợp nhau, thường xuyên cự cãi, anh Hiền đã bỏ nhà sống riêng từ 2014 đến nay.

Về nuôi con chung: Quá trình sống chung, có 02 con chung tên Đỗ Kim P, sinh năm 2009 và Đổ Phụng T, sinh năm 2013, hiện đang sống với chị D.

Nay anh H xin ly hôn, con chung để chị D nuôi, anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Về tài sản, nợ không yêu cầu giải quyết.

- Tại phiên tòa chị D là bị đơn trình bày:

Anh H và chị D có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn năm 2009. Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì anh H đi Thành phố Hồ Chí Minh lái xe. Thường xuyên về thăm gia đình. Nhưng từ Tết âm lịch 2019 đến nay anh Hiền không về nữa. Chị D cũng không đi tìm anh H, chỉ nghe nói anh H có người phụ nữ khác nhưng chị D không bắt gặp được. Nay chị D không đồng ý ly hôn, nhưng không có cách nào để hàn gắn, nên chị D chỉ mong muốn anh H làm gì nhưng vẫn lo cho các con là được.

Về nuôi con chung: Quá trình sống chung, có 02 con chung tên Đỗ Kim P, sinh năm 2009 và Đổ Phụng T, sinh năm 2013, hiện đang sống với chị D. Nếu Tòa cho ly hôn thì chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản, nợ không yêu cầu giải quyết.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H. Con chung để chị Diệu tiếp tục nuôi dưỡng, anh H cấp dưỡng theo quy định. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị D đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Anh H và chị D chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân giữa anh H và chị D là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Tuy nhiên, quá trình chung sống vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, khi có mâu thuẫn anh H đã bỏ ra ở riêng. Chị D cũng tự lo cho bản thân, không cần tìm anh Hiền để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay anh H cương quyết xin ly hôn, chị D không đồng ý nhưng không có động thái gì để hàn gắn. Khi Tòa án mời hòa giải để tạo điều kiện cho vợ chồng gặp nhau, hòa giải tháo gỡ những vướng mắc để vợ chồng đoàn tụ xây dựng lại cuộc sống gia đình, lo cho con chung nhưng chị D đều không đến.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.”

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy hôn nhân giữa anh H và chị D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của anh H là có căn cứ. Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình sống chung, anh H và chị D có 02 con chung tên Đỗ Kim P, sinh năm 2009 và Đổ Phụng T, sinh năm 2013, hiện đang sống với chị D. Nếu Tòa cho ly hôn thì chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Xét thấy: Con chung từ khi anh H và chị D xa nhau do chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến nay, 02 cháu vẫn khỏe mạnh phát triển bình thường.

Do đó, giao con chung cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng và anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Anh H không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, chị D và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Anh H và chị D không yêu cầu nên không xem xét.

[2.4]. Về nợ chung: Anh H và chị D không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Anh H xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 59, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đổ Minh H. Anh Đổ Minh Hđược ly hôn với chị Đào Kim D.

2. Về nuôi con chung:

Chị Đào Kim D được quyền tiếp tục nuôi 02 con chung tên Đỗ Kim P, sinh năm 2009 và Đổ Phụng T, sinh năm 2013, hiện đang sống với chị D.

Anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi cháu P và T mỗi tháng bằng ½ mức lương cơ sở tương ứng từng thời gian thi hành án. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 9/2019 đến khi cháu P và T đủ 18 tuổi.

Anh H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị D và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh H thực hiện quyền này.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Anh Đổ Minh H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0002785 ngày 21 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò. Anh H phải nộp thêm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:55/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về