TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 55/2019/DS-PT NGÀY 09/09/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 56/2019/TLPT-DS ngày 15 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.
Do bản án Dân sự sơ thẩm số: 43/2018/DS-ST ngày 14/12/2018 của Tòa án nhân dân V, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 48/2019/QĐ-PT ngày 07 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình Nh, sinh năm 1946. Nơi ĐKHKTT: Xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Hiện trú tại: số nhà n, ngõ n, đường t, khối V, phường V, thành phố V, Nghệ An. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1946. Hiện trú tại: Xóm 2, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nh: Bà Lê Thị Kim S - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Lê Tr - Đoàn luật sư Nghệ An. Có mặt.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Nh, bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm vụ án có nội dung:
Theo nội dung đơn khởi kiện, các lời khai, hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm Ông Nguyễn Đình Nh trình bày: Ông Nh và Bà Nguyễn Thị Nh trước đây là vợ chồng, nhưng đã ly hôn vào năm 1995 theo bản án dân sự số 04 ngày 19/01/1995 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nghệ An, về đất ở vợ chồng thoả thuận tự chia và đã được chính quyền địa phương lập thành văn bản vào ngày 15/02/1995. Theo văn bản thoả thuận Ông Nh được chia 628m2, còn bà Nh được chia 928m2, đến năm 2002 Nhà nước tiến hành đo đạc lại thì đất của bà Nh là 1206m2. Năm 2011 bà Nh đã làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 1044m2, sau đó bà Nh đã chuyển nhượng cho 03 người khác với diện tích 506m2, phần còn lại bà Nh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tại thửa số 22, tờ bản đồ số 40, diện tích 537,4m2. Năm 2014 khi tiến hành đo đạc lại thì ông Nh mới biết bà Nh đã chiếm toàn bộ thửa đất của ông có diện tích là 735,4m2 và bà Nh đã làm nhà trên phần đất của Ông Nh với diện tích khoảng 200m2. Do sau khi ly hôn Ông Nh chuyển nơi ở khác nên không biết, nhưng khi biết bà Nh xây dựng nhà trên đất của mình, Ông Nh đã làm đơn khiếu nại tới các cấp chính quyền nhưng đến nay vẫn không được giải quyết dứt điểm. Vì vậy nay Ông Nh khởi kiện đề nghị Toà án nhân dân thành phố Vinh giải quyết buộc Bà Nguyễn Thị Nh phải tháo dỡ công trình là nhà ở để trả lại đất cho ông.
Bà Nguyễn Thị Nh và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nh trình bày: Năm 1983, bà mua một thửa đất của bên ngoại và đất của ông chú bên nội liền kề nhau ở xóm 2, xã N, huyện N, Nghệ An (Nay là xóm 2, xã N, thành phố V. Năm 1995 vợ chồng ly hôn và đã tự phân chia tài sản cụ thể như sau: Phần đất của bà Nh mua của bên ngoại để lại cho bà Nh, còn phần đất 628m2 mua của bên nội để lại cho ông Nhượng. Năm 2004 Nhà nước có chủ trương làm đường giao thông nông thôn thì UBND xã đã có văn bản đổi cho Ông Nguyễn Đình Nh 628m2 đất ở khu dân cư mới còn đất của Ông Nh được giao lại cho Bà Nguyễn Thị Nh có văn bản của xã giao đất ngày 18/8/2004. Năm 2011, Bà Nguyễn Thị Nh đã xây dựng nhà ở trên đất do Ông Nh giao lại và chính quyền địa phương là UBND xã N, thành phố V hoàn toàn không có ý kiến gì. Vì vậy nay Ông Nguyễn Đình Nh khởi kiện yêu cầu bà trả lại đất là không có cơ sở nên bà không chấp nhận.
Tại bản án số 43/2018/DS-ST ngày 14/12/2018 của Tòa án nhân dân V, tỉnh Nghệ An đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26, điều 147, Điều 165, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 163, Điều 164, Điều 166 Bộ luật Dân sự; Khoản 2 Điều 205 luật đất đai; Nghị quyết 326/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử: Chấp yêu cầu của Ông Nguyễn Đình Nh:
Buộc Bà Nguyễn Thị Nh trả lại thửa đất số 66, tờ bản đồ số 40, diện tích 735,4 mét vuông ở xóm 2, xã N, thành phố V cho Ông Nguyễn Đình Nh. Tạm giao cho Ông Nguyễn Đình Nh thửa đất số 66, tờ bản đồ số 40, diện tích 735,4 mét vuông (Theo sơ đồ và kết quả đo đạc của trung tâm đo đạc thuộc văn phòng đăng ký quyền sử đất UBND thành phố Vinh, ngày 20/10/2018).
Khi án có hiệu lực thi hành Ông Nguyễn Đình Nh phải đến cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục về đất đai.
Ông Nguyễn Đình Nh được sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với đất do bà Nh xây dựng gồm: Nhà ở một tầng có diện tích 62,37 mét vuông trị giá 170.644.000đ (Một trăm bảy mươi triệu sáu trăm bốn mươi bốn ngàn đồng), một nhà cấp 4 diện tích xây dựng là 24,3 mét vuông trị giá 34.555.000đ (Ba mươi bốn triệu năm trăm năm mươi lăm ngàn đồng), mái tôn phía trước có diện tích là 39,56 mét vuông trị giá 15.428.000đ (Mười lăm triệu bốn trăm hai mươi tám ngàn đồng). Tổng toàn bộ là 220.627.000đ (Hai trăm hai mươi triệu sáu trăm hai mươi bảy ngàn đồng) tại kết luận định giá của hội đồng định giá UBND V ngày 19/11/2018, nhưng Ông Nguyễn Đình Nh phải hoàn trả cho Bà Nguyễn Thị Nh số tiền 220.627.000đ (Hai trăm hai mươi triệu sáu trăm hai mươi bảy ngàn đồng).
Bản án còn quyết định nghĩa vụ của người phải chịu án phí, nghĩa vụ người chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 25 tháng 12 năm 2018, bà Nguyễn Thị Nh kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2018/DS-ST ngày 14/12/2018 của Tòa án nhân dân V, tỉnh Nghệ An với nội dung: Kháng cáo toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết lại nội dung vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Nh giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị hòa giải để các bên có thể thỏa thuận với nhau về phương án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các bên đương sự chấp hành đúng quy định pháp luật, về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm Ông Nguyễn Đình Nh và Bà Nguyễn Thị Nh đã hòa giải và thống nhất thỏa thuận với nhau về việc phân chia, nhận các phần đất, các tài sản trên đất. Việc thỏa thuận giữa ông Nhượng, bà Nh là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự và công nhận theo nội dung mà các bên đã thỏa thuận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nh đã được thẩm tra, nội dung, kết quả thỏa thuận giữa ông Nhượng, bà Nh và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa phúc thẩm. Xét nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Như, Hội đồng xét xử nhận định:
Bà Nguyễn Thị Nh và ông Nguyễn Đình Nh trước đây là vợ chồng, nhưng đã ly hôn nhau năm 1995. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04 ngày 19/01/1995 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nghệ An đã giao phần tài sản chung đất đai cho chính quyền địa phương và ông Nh, bà Nh giải quyết. Ngày 15/02/1995, ông Nguyễn Đình Nh và bà Nguyễn Thị Nh và UBND xã N, huyện L (nay là thành phố V) tiến hành thỏa thuận phân chia tài sản chung của ông Nh, bà Nh là diện tích đất thổ cư. Theo đó, bà Nguyễn Thị Nh được sử dụng phần đất có ngôi nhà cấp 4 gắn với diện tích 925m2, ông Nh được sử dụng 628m2 đất. Sau khi thỏa thuận phân chia diện tích đất bà Nguyễn Thị Nh sử dụng phần đất của mình ổn định, còn phần đất của ông Nh, do Ông Nh kết hôn với người khác nên ở nơi khác mà chưa sử dụng phần đất 628m2 của mình. Năm 2004, địa phương có chủ trương mở đường dân cư nên Xóm, Xã đã vận động các hộ dân hoán đổi đất để thực hiện xây dựng nông thôn mới. Phần đất 628m2 của ông Nh có ảnh hưởng đến việc mở rộng đường nông thôn, xóm 2, UBND xã N và ông Nh thống nhất đổi đất cho ông Nh ở nơi khác và tạm giao cho ông Nh diện tích đất nơi khác để sử dụng. Tuy nhiên việc đổi đất không thể thực hiện được và diện tích đất mà UBND xã N lấy của ông Nh cũng chỉ lấy một phần để mở rộng đường nông thôn. Vì vậy, mặc dù ngày 18/8/2004 ông Nh vói xóm, xã N có thỏa thuận về việc đổi đất nhưng không thực hiện được.
Trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Nh cũng xác định và thừa nhận: Bà Nh biết ngày 18/8/2004 ông Nguyễn Đình Nh và UBND xã N thỏa thuận đổi phần diện tích 628m2 được chia để lấy đất ở nơi khác. Khi làm đường thì Xóm và xã N chỉ sử dụng một phần đất của ông Nh; phần diện tích đất còn lại của ông Nh UBND xã giao cho bà Nh sử dụng, nhưng bà Nh không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc UBND xã N giao diện tích đất còn lại của ông Nh cho bà Nh sử dụng. Mặt khác, phần đất của bà Nh được chia năm 1995, năm 2002 cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định đo đạc lại diện tích bà Nh sử dụng thực tế là 1.206m2 và được UBND thành phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2011 đã xác định rõ tứ cận phần đất của bà Nh và bà Nh cũng đã chuyển nhượng một phần diện tích đất của mình cho 3 người khác với tổng diện tích là 506m2. Như vậy, phần đất của ông Nguyễn Đình Nh được phân chia vói bà Nh ngày 15/02/1995, từ năm 2004 Ông Nh không quản lý sử dụng mà thuộc sự quản lý của UBND N. Năm 2011 bà Nh đã tự ý xây dựng nhà và các công trình trên đất mà không có sự ngăn cản của các cấp có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết hanh chấp, tại Văn bản số 4139 ngày 19/8/2016 (B1, 13, 14) của Ủy ban nhân dân thành phố Vinh đã có kết luận; việc UBND xã N thu hồi phần đất của Ông Nh và giao đất nơi khác là trái quy định và phần đất của Ông Nh hiện là đất trống; Ủy ban nhân dân xã N để cho bà Nh tự ý xây dựng nhà ở trên phần đất của Ông Nh mà không có biện pháp ngăn chặn, đáng lẽ phải buộc bà Nh phải tháo dỡ. Nhưng hiện bà Nh tuổi cao, già yếu không thể có điều kiện để xây dựng lại nhà ở, nên cần vận động không yêu cầu bà Nh tháo dỡ nhà ở, nhưng bà Nh phải đổi lại một phần đất cho ông Nhượng. Và quá trình giải quyết tranh chấp tại cơ sở, tại kết luận cuộc họp giải quyết đơn công dân ngày 06/10/2015 của UBND xã Nghi Liên (B1, 20) Ông Nh cũng chấp nhận, nếu bà Nh đã làm nhà trên phần đất trống của Ông Nh mà từ trước đến nay xã Nghi Liên đang quản lý, nay Ông Nh chấp nhận, nhận phần diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận cho bà Nh năm 2011.
Tại phiên tòa phúc thẩm Ông Nguyễn Đình Nh và Bà Nguyễn Thị Nh tự thỏa thuận với nhau, bà Nh đồng ý trả lại cho Ông Nh một phần diện tích đất đã được UBND thành phố Vinh cấp giấy chứng nhận cho bà Nh năm 2011. Theo đó Bà Nguyễn Thị Nh trả lại cho Ông Nh 523,7m2 thuộc thửa đất số 123, tờ bản đồ số 11 đã được UBND thành phố Vinh cấp giấy chứng nhận QSD đất ngày 04/7/2011 cho Bà Nguyễn Thị Nh (Số thửa đất mới 22, diện tích thực tế 604,2m2); Bà Nguyễn Thị Nh được sử dụng diện tích đất còn lại và được sử dụng toàn bộ diện tích thửa đất có nhà, các công trình của bà Nh đã xây dựng (Đổi đất có tứ cận cụ thể, sơ đồ kèm theo) và Ông Nh được sở hữu phần tường bao và các loại cây cối trên đất được giao mà Ông Nh không phải thanh toán trị giá tài sản trên đất cho bà Nh. Bà Nh có nghĩa vụ tiến hành thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho Ông Nh theo quy định của pháp luật Đất đai. Xét thấy, việc thỏa thuận giữa các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật, cần được chấp nhận. Bởi vậy, một phần nội dung kháng cáo của Bà Nguyễn Thị Nh có cơ sở chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã phân tích nêu trên.
[2]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Nh và Ông Nguyễn Đình Nh là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
[3]. Về chi phí thẩm định, định giá tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm: Người yêu cầu đã tự nguyện chịu toàn bộ, đã thực hiện xong nên Hội đồng xét xử không xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Như, sửa Bản án sơ thẩm. Công nhận sự thỏa thuận giữa Ông Nguyễn Đình Nh và Bà Nguyễn Thị Nh.
Áp dụng các Điều 163, Điều 164, Điều 166 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 205 luật đất đai; Nghị quyết 326/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Bà Nguyễn Thị Nh trả lại cho Ông Nguyễn Đình Nh 523,7m2 đất, thuộc thửa đất số 123, tờ bản đồ số 11 đã được UBND V cấp giấy chứng nhận QSD đất ngày 04/7/2011 cho Bà Nguyễn Thị Nh (Thửa đất mới 22, tờ bản đồ số 40 diện tích thực tế 604,2m2), tại xóm 2, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An, có tứ cận được xác định theo các điểm 1, 2, 3, 4, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 1 (S1) và được sở hữu phần tường bao, các loại tài sản trên phần đất được giao (Diện tích đất S1 có sơ đồ chi tiết kèm theo).
2. Tạm giao cho Bà Nguyễn Thị Nh sử dụng 684,4m2 đất, thuộc thửa đất số 66, tờ bản đồ số 40, tại xóm 2, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An có tứ cận xác định theo các điểm; 5,6,7,8,9,10,11,12,13,27,26,25,24,5 (S3) và được sử dụng 80,5m2 đất (S2) thuộc thửa đất số 123, tờ bản đồ số 11 đã được UBND V cấp giấy chứng nhận QSD đất ngày 04/7/2011 cho Bà Nguyễn Thị Nh (Thửa đất mới 22, tờ bản đồ số 40 diện tích thực tế 604,2m2), tại xóm 2, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An, có tứ cận được xác định theo các điểm 13,4,5,24,25,26,27,13 (Các diện tích đất S2, S3 có sơ đồ chi tiết kèm theo).
Bà Nguyễn Thị Nh, Ông Nguyễn Đình Nh và những người liên quan có quyền và nghĩa vụ đến các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục, kê khai, đăng ký chuyển quyền sử dụng đất theo quy định về pháp luật Đất đai.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Hoàn trả cho Ông Nguyễn Đình Nh 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu số 0000462 ngày 31/10/2017.
4. Về án phí phúc thẩm: Hoàn trả cho Bà Nguyễn Thị Nh 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu số 0003273 ngày 07/01/2019.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 55/2019/DS-PT ngày 09/09/2019 về tranh chấp đòi lại tài sản
Số hiệu: | 55/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về