Bản án 55/2018/HS-PT ngày 19/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 55/2018/HS-PT NGÀY 19/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG  TÍCH

Ngày 19 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2017/TLPT-HS ngày 22 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Trần Quốc C do có kháng cáo của những người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm 132/2017/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Trần Quốc C (Đ), sinh năm: 1997. Nơi cư trú: khu phố 1, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Khu phố 8, thị trấn D, huyện P, Kiên Giang nghề nghiệp: Ngư phủ; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam, tôn giáo: không, quốc tịch: Việt Nam, con ông Trần Thanh H và bà Dương Thị Bích L; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/8/2017 đến nay. (Có mặt).

-   Người bị hại có kháng cáo:

1.  Ông Phùng Bá L, sinh năm 1989. (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn V, xã V, huyện B, thành phố Hà Nội.

2.  Ông Cao Trung K, sinh năm 1995. (Có mặt)

Địa chỉ: thôn Kh, xã Ng, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại Cao Trung Kiên:

Luật sư Phạm Văn M – Công ty luật TNHH Mạnh L – Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 13/5/2017, Nguyễn Thế L, Phùng Bá L, Vũ Công Th và Cao Trung K đến nhà của Cao Văn S tại khu phố 8, thị trấn D, huyện P để lấy tiền. Do anh S không có tiền trả nên xảy ra cự cãi. Lúc này Trần Quốc C đi đám tang về ngang nhà anh S thấy mọi người đang cự cãi nhau nên đến can ngăn thì bị L, L, Th, K dùng lời lẽ thô tục chửi và đuổi C. Tức giận nên C đi đến khu vực xưởng cưa của ông Dương Văn N thuộc khu phố 8, thị trấn D, huyện P, Kiên Giang lấy một cây búa đẽo quay lại nhà S. C thấy L, L, Th và K còn đang đứng trước nhà anh S nên cầm búa chém trúng K, L và Th gây thương tích, sau đó C bỏ trốn đến ngày 14/7/2017 ra đầu thú.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 417/KL-PY ngày 18/7/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận thương tích của anh Cao Trung K tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 24%.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 408/KL-PY ngày 14/7/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận thương tích của anh Phùng Bá L tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 07%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 132/2017/HSST ngày 13/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: khoản 2 Điều 104; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc C 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/8/2017.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 20/12/2017, người bị hại Phùng Bá L có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu tăng án đối với bị cáo Trần Quốc C.

Ngày 20/12/2017, người bị hại Cao Trung K có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu tăng án đối với bị cáo và yêu cầu bồi thường thiệt hại tổng cộng 153.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quốc C thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự là đúng tội và không có kháng cáo.

Người bị hại Cao Trung K và Phùng Bá L giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

*Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại Cao Trung K trình bày:

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang đã tuyên cho bị cáo C là chưa thỏa đáng. Bởi vì hôm xảy ra sự việc có nhiều người gây thương tích cho người bị hại chứ không phải một mình bị cáo Trần Quốc C. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích cũng thể hiện bị hại có nhiều vết thương với những vật gây thương tích khác nhau chứ không phải chỉ có búa đẽo như bị cáo C khai, cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm. Bị cáo phạm tội là dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ và gây thương tích cho nhiều người, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cần phải xem xét khi lượng hình. Về trách nhiệm dân sự, tòa án cấp sơ thẩm tách phần bồi thường dân sự thành một vụ kiện dân sự khác là không có căn cứ. Từ những vấn đề nêu trên, mong Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của người bị hại Cao Trung K, tăng mức án cao nhất tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự và buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại Kiên tổng cộng số tiền là 173.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của các người bị hại về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của những người bị hại theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về Quyết định của bản án sơ thẩm: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 13/5/2017, bị cáo Trần Quốc C dùng một cây búa đẽo chém vào người Cao Trung K và Phùng Bá L gây thương tích. Qua kết luận giám định Cao Trung K bị thương tích 24%, Phùng Bá L bị thương tích 07%. Hành vi của bị cáo Trần Quốc C dùng cây búa đẽo là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho các người bị hại nên bản án sơ thẩm đã áp dụng khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của các người bị hại: Người bị hại Cao Trung K và Phùng Bá L kháng cáo yêu cầu tăng án đối với bị cáo Trần Quốc C. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo C lúc đầu chỉ có ý định can ngăn khi thấy mọi người cự cãi nhau nhưng do bị chửi và đuổi nên C đã đánh những người bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử bị cáo mức án 02 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo tăng án đối với bị cáo C của hai người bị hại. Còn về nội dung kháng cáo yêu cầu bồi thường của người bị hại Cao Trung K. Anh K yêu cầu buộc bị cáo bồi thường cho anh tổng cộng 153.000.000 đồng trong đó: Tiền chữa trị vết thương và chi phí đi lại 25.000.000 đồng, tiền công lao động 6 tháng là 42.000.000 đồng, tiền công người chăm sóc 21.000.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần và các di chứng về sau 65.000.000 đồng. Thấy rằng: ở phiên tòa sơ thẩm anh K không cung cấp được hóa đơn, chứng từ đã điều trị tại bệnh viện cũng không trình bày được cụ thể các khoản yêu cầu bồi thường là như thế nào để Hội đồng xét xử xem xét cho nên Tòa án cấp sơ thẩm tách yêu cầu bồi thường của anh Cao Trung K thành một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu là có cơ sở. Cấp phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, không chấp nhận nội dung kháng cáo của anh Cao Trung K.

[4] Về quan điểm của vị đại diện viện kiểm sát: Vị đại diện viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của những người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Quan điểm đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát là có cơ sở nên được chấp nhận.

[5] Về quan điểm của luật sư: Luật sư cho rằng bỏ lọt tội phạm nhưng Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Quốc đã điều tra theo lời khai của người bị hại mà vẫn không xác định được có đồng phạm cùng gây thương tích với bị cáo C, bị cáo C khai chỉ có một mình bị cáo gây thương tích cho người bị hại. Mức án 02 năm tù cấp sơ thẩm đã tuyên cho bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo gây ra. Về trách nhiệm bồi thường cấp sơ thẩm tuyên cũng đã phù hợp. Vì vậy, không chấp nhận quan điểm của luật sư  bảo vệ quyền lợi cho anh K.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử đã thảo luận và thấy rằng các Quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh, mức hình phạt, trách nhiệm bồi thường của bị cáo Trần Quốc C là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận quan điểm đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát, không chấp nhận nội dung kháng cáo của các bị hại.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm e khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Do yêu cầu kháng cáo của người bị hại Phùng Bá L và Cao Trung K không được chấp nhận nên mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ ngày 01/01/2018 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành, hành vi của bị cáo Trần Quốc C bị xử phạt, các tình tiết giảm nhẹ so sánh giữa Bộ luật hình sự năm 1999 và năm 2015 thì Bộ luật hình sự năm 2015 nhẹ hơn, có lợi cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của những người bị hại L và K, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

2. Áp dụng: khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc C (Đ) 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/8/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Tách yêu cầu bồi thường của anh Cao Trung K thành một vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, điểm e khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Anh Phùng Bá L và Cao Trung K mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 132/2017/HS-ST ngày 13/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2018/HS-PT ngày 19/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:55/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về