TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 55/2018/HS-PT NGÀY 09/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09/02/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 448/2017/TLPT-HS ngày 25/12/2017 đối với bị cáo Giang Quốc D về tội “Trộm cắp tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2017/HS-ST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: GIANG QUỐC D, sinh năm 1978, tại tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: Thôn O, xã EP, huyện P, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 05/12; con ông Giang Thanh B1 và bà Nguyễn Thị L; vợ Nguyễn Thị N và 01 con sinh năm 2012; tiền sự: Không.
Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2000/HS-ST, ngày 03/3/2000 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã từ ngày 28/7/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa
Bị hại: Bưu điện xã EK, huyện P, tỉnh Đắk Lắk (Nay là Trung tâm viễn thông khu vực Đ Đắk Lắk).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Xuân T - Chức vụ: Giám đốc Trung tâm viễn thông khu vực Đ Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn Q - Chức vụ: Phó giám đốc Trung tâm viễn thông khu vực Đ Đắk Lắk, vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1. Ông Nguyễn Quốc D1, vắng mặt
2. Ông Đào Huy Đ1, vắng mặt.
Cùng trú tại: Thôn O, xã EP, huyện P, tỉnh Đắk Lắk
3. Ông Đặng Đức V; trú tại: Thôn PT, xã EP, huyện P, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 08/10/2008, Giang Quốc D làm nghề bốc vác tại chợ đêm xã EP, huyện P đi đến quán tạp hóa TĐ ở Thôn O, xã EP, huyện P, tỉnh Đắk Lắk gặp Nguyễn Quốc D1 và Đào Huy Đ1 đang ngồi uống rượu trước quán tạp hóa TĐ. Thấy D đến, D1 đi ra nói chuyện và rủ D đêm nay tham gia trộm cắp dây cáp viễn thông của Bưu điện xã EK (đối diện quán TĐ) bán lấy tiền thì D đồng ý. D1 về nhà lấy một kìm cộng lực (mượn của anh Nguyễn Quốc H) và 05 bao tải (thường gọi là bao xác rắn) mang ra giấu ở khu vực công viên xã EP và đi đến quán TĐ nhưng không thấy D mà chỉ có Đ1 ở đó nên đã rủ Đ1 tham gia trộm cắp thì Đ1 đồng ý. Đến khoảng 01 giờ ngày 09/10/2008, cả hai đi bộ xuống công viên lấy kìm cộng lực và bao tải, rồi trèo qua hàng rào bưu điện xã EK vào bên trong, Đ1 lấy dây kim loại cột bên ngoài cánh cửa bưu điện để tránh bị truy đuổi. Sau đó D1 và Đ1 đi tới 03 cuộn dây cáp điện viễn thông để tại sân bưu điện và dùng kìm cắt thành từng đoạn dài khoảng 2m rồi bỏ vào bao tải. Cắt được một lúc thì D1 quay lại quán TĐ gọi D qua cùng tham gia. D1, Đ1 và D cắt đầy 05 bao tải mang theo thì không cắt nữa và khiêng 03 bao ra ngoài hàng rào. Khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, D đi mượn được xe mô tô biển số 47N6 - 0014 của anh Đặng Đức V rồi cùng Đ1 chở 03 bao cáp viễn thông đến nghĩa trang thôn PT, xã EP cất giấu, còn D ở lại cảnh giới. Khi D1 và Đ1 quay xe lại bưu điện để chở tiếp 02 bao cáp còn lại thì bị quần chúng nhân dân phát hiện, truy đuổi nên đã chạy xuống huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk lẩn trốn. Đến 18 giờ 30 phút cùng ngày thì Nguyễn Quốc D1 và Đào Huy Đ1 đến Công an huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk đầu thú. Ngày 15/01/2009, được xét xử tại Bản án số 03/2009/HSST của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk. Đối với Giang Quốc D, sau khi gây án đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 28/7/2017 bị bắt theo lệnh truy nã.
Tại bản kết luận định giá số 35/KL-HĐĐG, ngày 03/11/2008 của Hội đồng định giá tài sản huyện P, tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 261m cáp viễn thông (đã bị cắt khúc dài khoảng 2m) có giá trị tại thời điểm bị trộm cắp là 8.012.700đ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 68/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk, quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Giang Quốc D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm i, g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999; Xử phạt bị cáo Giang Quốc D 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 28/7/2017.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về các biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 23/11/2017, bị cáo Giang Quốc D có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm.
Quá trình tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk đã tuyên xử bị cáo Giang Quốc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo thấy rằng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng xâm phạm tài sản của nhà nước được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 là không đúng mà cần phải áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội về tinh thần có lợi cho bị cáo, Tại Điều 52 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đã bỏ tình tiết tăng nặng xâm phạm tài sản của nhà nước. Tuy nhiên, mức hình phạt trên là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Cần giữ nguyêm mức hình phạt của bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai và lời nhận tội của bị cáo Giang Quốc D tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận, do ý thức coi thường pháp luật và động cơ tư lợi cá nhân, muốn có tiền để tiêu xài nên bị cáo Giang Quốc D cùng với các bị cáo Nguyễn Quốc D1, Đào Huy Đ1 đã có hành vi lén lút đột nhập vào Bưu điện xã EK, huyện P, dùng kìm cộng lực cắt trộm 261m cáp viễn thông trị giá 8.012.700 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm số 68/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk đã xét xử bị cáo Giang Quốc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt 01 năm 09 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Giang Quốc D là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước mà còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức được rằng tài sản của Nhà nước được pháp luật bảo vệ, người nào xâm phạm bất hợp pháp sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nhưng với ý thức coi thường pháp luật, động cơ vụ lợi bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản. Bị cáo phạm tội thuộc trước hợp tái phạm. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 31/2000/HS-ST, ngày 03/3/2000 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần án phí của bản án, bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội.Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng xâm phạm tài sản của nhà nước được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 là không đúng mà cần phải áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội về tinh thần có lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt trên là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
[3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Giang Quốc D phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Giang Quốc D – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 68/2017/HSST ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.
Áp dụng khoản 1 Điều138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội.
Xử phạt bị cáo: Giang Quốc D 01 (Một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 28/7/2017.
- Về án phí: Bị cáo Giang Quốc D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 55/2018/HS-PT ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 55/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về