TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 55/2017/HSST NGÀY 15/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 15 tháng 8 năm 2017, tại Nhà văn hóa thôn Đồng Giãng, xã Ngọc Thanh, Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 49/2017/TLST - HS ngày 20 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Đăng Đ, sinh ngày 01 tháng 9 năm 1979; sinh trú quán: Tổ 6, phường T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Đăng Đ1 và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Cao Thị S và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án (Tại bản án hình sự số 57/2013/HSST ngày 11 tháng 6 năm 2013, Tòa án nhân dân huyện Mê Linh xử phạt 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự, đã chấp hành xong hình phạt tù về địa phương ngày 12 tháng 5 năm 2016); bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06 tháng 5 năm 2017 đến nay, (Có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Đăng Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 06 tháng 5 năm 2017, Nguyễn Đăng Đ đang ngồi uống nước ở khu vực bến xe Phúc Yên thì nhận được điện thoại của bạn nghiện mới quen tên là Nguyễn Thị L, L nói: “lấy cho em cái 200.000đồng”, ý L hỏi mua ma túy đá của Đ, Đ đồng ý. Cả hai hẹn nhau đ n đầu ngõ Đ thuộc tổ dân phố X, phường P, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc để giao dịch mua bán ma túy.
Sau đó, Đ mang theo 01 túi nilon màu đen bên trong có 13 ống nhựa ma túy đá rồi thuê xe ôm của một người đàn ông không quen bi t đ n chỗ hẹn. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Đ gặp L tại chỗ hẹn, tại đây, L đưa cho Đ số tiền 200.000đồng để mua ma túy, Đ cầm tiền cất vào túi quần sau bên trái đang mặc rồi đưa cho L 01 ống nhựa màu tím bên trong có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng. Khi hai bên vừa mua bán xong thì bị Công an phường P, thị xã P phát hiện bắt quả tang.
Tang vật thu giữ gồm: Thu tại lòng bàn tay phải của Nguyễn Thị L 01 ống nhựa màu tím, bên trong có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng, được niêm phong trong phong bì, ký hiệu là A1, L khai nhận là ma túy đá vừa mua của Đ; thu tại túi quần sau bên trái đang mặc của Đ số tiền 200.000đồng, Đ khai nhận đây là tiền bán ma túy cho L; thu tại túi quần bên phải phía trước đang mặc của Nguyễn Đăng Đ 01 túi nilon màu đen bên trong có 12 ống nhựa (có 09 ống nhựa màu hồng, 03 ống nhựa màu trắng), bên trong mỗi ống nhựa đều chứa các tinh thể dạng đá màu trắng, được niêm phong trong phong bì, ký hiệu là A2, Đkhai nhận đây là ma túy đá của Đ mục đích để sử dụng và bán ki m lời.
Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen đã cũ, thu giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel, màu đỏ đen đã cũ.
Ngày 07 tháng 5 năm 2017, Cơ quan điều tra khám xét nơi ở của Nguyễn Đăng Đ nhưng không phát hiện, thu giữ được gì liên quan đến ma túy.
Ngày 06 tháng 5 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã Phúc Yên ra Quyết định số 85, trưng cầu giám định đối với mẫu đã thu giữ ký hiệu A1 và A2. Tại Kết luận giám định số 432/KLGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định có khối lượng (trọng lượng) là 0,0704g (không phảy không bảy không bốn gam) không kể bao bì có Methamphetamine, khối lượng (trọng lượng) Methamphetamine có trong 0,0704g mẫu là 0,0535g (không phảy không năm ba năm gam); tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A2 gửi đến giám định có khối lượng (trọng lượng) là 1,1588g (một phảy một năm tám tám gam) không kể bao bì có Methamphetamine, khối lượng (trọng lượng) Methamphetamine có trong 1,1588g mẫu là 0,8411g (không phảy tám bốn một một gam). Hoàn trả mẫu vật còn sau giám định A1= 0,0000g; A2= 0,7886g mẫu và toàn bộ bao gói”.
Tại Cáo trạng số: 55/KSĐT-MT ngày 19 tháng 7 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Nguyễn Đăng Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đăng Đ như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng Đ từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ Luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ mẫu vật cùng bao gói được hoàn lại sau giám định; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ là tiền mua bán ma túy; Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 của Nguyễn Đăng Đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel của Nguyễn Thị L có liên quan đ n việc mua bán ma túy; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
XÉT THẤY
Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Nguyễn Đăng Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên. Bị cáo khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06 tháng 5 năm 2017, tại đầu ngõ Đ thuộc tổ dân phố X, phường P, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo vừa bán cho đối tượng tự khai là Nguyễn Thị L 01 ống nhựa chứa ma túy có trọng lượng là 0,0704g (không phảy không bảy không bốn gam), trọng lượng Methamphetamine là 0,0535g (không phảy không năm ba năm gam) với giá 200.000đồng thì bị Công an phường P, thị xã P bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật nêu trên. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ trên người bị cáo 12 ống nhựa chứa ma túy có trọng lượng là 1,1588g (một phảy một năm tám tám gam), trọng lượng Methamphetamine là 0,8411g (không phảy tám bốn một một gam) mà bị cáo mang theo người để sử dụng và n u ai mua thì bị cáo bán để ki m lời.
Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của người làm chứng; K t luận giám định của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 06 tháng 5 năm 2017; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào k t quả giám định chất, trọng lượng và hàm lượng ma túy đã thu giữ được thì đủ cơ sở để khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên truy tố Nguyễn Đăng Đ theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ hai năm đ n bảy năm là đúng quy định của pháp luật.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự là thành khẩn khai báo nhưng bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự là tái phạm. Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy và đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là tiền đề để tệ nạn sử dụng ma túy gia tăng, gây bức xúc trong nhân dân, gây hiểm hoạ cho toàn xã hội. Ma túy không những gây tác hại rất lớn cho sức khoẻ bản thân người sử dụng mà còn gây ra hệ lụy nghiêm trọng cho toàn xã hội, rất nhiều vụ án xảy ra trong thời gian qua có nguyên nhân trực tiếp từ việc sử dụng ma túy. Vì vậy cần xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam với mức án như Viện kiểm sát đề nghị mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, cũng như giúp bị cáo có điều kiện để giáo dục, cải tạo thành người công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa làm rõ bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có tài sản, sống phụ thuộc gia đình. Vì vậy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Về nguồn gốc số ma túy: Nguyễn Đăng Đ khai nhận, vào khoảng 12 giờ ngày 05 tháng 5 năm 2017, bị cáo đã mua 01 túi nilon màu đen bên trong có 13 ống nhựa chứa ma túy đá của người đàn ông lạ mặt ở khu vực ga tàu Phúc Yên thuộc tổ 2, phường T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc, với giá 1.200.000đồng, mục đích là để sử dụng và bán kiếm lời. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa chưa xác định được đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Đăng Đ, vì vậy đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.
Đối với đối tượng mua ma túy của Nguyễn Đăng Đ tự khai là Nguyễn Thị L, sinh năm 1981 ở xã T, thị xã P, tỉnh Vĩnh Phúc và người đàn ông lái xe ôm chở Đ đến chỗ hẹn mua bán ma túy với L, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh danh tính của những đối tượng này nhưng chưa xác định được nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.
Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu, tiêu hủy toàn bộ mẫu vật và bao gói được Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định; tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng của Nguyễn Đăng Đ là tiền do phạm tội mà có; tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại của Nguyễn Đăng Đ và 01 điện thoại của đối tượng tự khai là Nguyễn Thị L do sử dụng làm phương tiện để liên lạc thực hiện phạm tội.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”
Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng Đ 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06 tháng 5 năm 2017.
Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ mẫu vật (0,7886g mẫu) cùng toàn bộ bao gói được hoàn lại sau giám định; tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 và số tiền 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) của Nguyễn Đăng Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel của Nguyễn Thị L. Tất cả vật chứng và tiền nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Phúc Yên lập ngày 24 tháng 7 năm 2017.
Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Đăng Đ phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm
Bản án 55/2017/HSST ngày 15/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 55/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về