Bản án 543/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 543/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 427/2016/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1618/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Quỳnh N, sinh năm 1986

Địa chỉ: 212 C1-14 tầng 2, đường T, phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Vo Trung H, sinh năm 1982

Địa chỉ: 3709 MD, SJ CA 95127 USA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06/9/2016 và bản tự khai ngày 21/11/2016, nguyên đơn bà Trần Thị Quỳnh N trình bày:

Bà và ông Vo Trung H tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND Tp.HCM theo Giấy chứng nhận kết hôn số 634 quyển số 04 ngày 10/3/2014.

Sau khi kết hôn thì ông Vo Trung H trở về Hoa Kỳ làm việc còn bà ở Việt Nam với cha mẹ. Sau khi kết hôn, bà mang thai ông Vo Trung H đối xử rất tốt nhưng sau đó vì lý do sức khỏe bà không đi làm được ông Vo Trung H phải gửi tiền về nuôi vợ con thì mâu thuẫn phát sinh. Nguyên nhân chủ yếu là do giữa vợ chồng không có sự cảm thông, chia sẻ, có sự khác biệt lớn về tính cách và văn hóa, thường xuyên xảy ra cải vã, cuộc sống gia đình ngày càng trở nên nặng nề. Dù vợ chồng và gia đình hai bên cố gắng hòa giải nhưng vẫn không khắc phục được. Từ đó, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần. Đến tháng 6/2015 thì vợ chồng cắt đứt mọi liên lạc, mạnh ai nấy sống, không còn sự quan tâm nhau nữa. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân với ông Vo Trung H.

Về con chung: có 01 người con tên Vo J, sinh ngày 10/9/2014 hiện đang ở với mẹ. Khi ly hôn bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung; việc cấp dưỡng nuôi con sẽ do đôi bên tự thỏa thuận với nhau.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn ông Vo Trung H cư trú ở Hoa Kỳ, Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Văn bản thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm (lần 1) số 1300/UTTPDS-TA ngày 05/12/2016 và Thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm (lần 2) số 557/TTTPDS-TA30 ngày 30/10/2017. Theo nôi dung tại các Thông báo nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 8g00 ngày 07/9/2017, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 8g00 ngày 03/5/2018. Văn bản lần 1 được Tổng lãnh sự quan Việt Nam tại San Francisco, Hoa Kỳ gửi thong báo cho đương sự đồng thời đã niêm yết hồ sơ tại trụ sở nhưng không thấy trả lời và cũng không đến nhận hồ sơ. Văn bản lần 2 được Bộ

Tư pháp gửi đến Công ty ABC Legal, Hoa Kỳ ngày 28/11/2017. Ngày 12/4/2018, Tòa án nhận được văn bản của Bộ Tư pháp thông báo cơ quan có thẩm quyền của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã thực hiện thành công việc ủy thác tư pháp bằng phương thức tống đạt hồ sơ trực tiếp cho đương sự. Đến khi mở phiên tòa, Tòa án không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông Vo Trung H và ông cũng không có mặt tại phiên tòa.

Nguyên đơn bà Trần Thị Quỳnh N có đơn đề nghị vắng mặt tại phiên tòa. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục tại phiên tòa .

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Trần Thị Quỳnh N được ly hôn ông Vo Trung H. Về con chung: Giao người con chung Vo J, sinh ngày 10/9/2014 cho bà Trần Thị Quỳnh N trực tiếp nuôi dưỡng; mức cấp dưỡng nuôi con do đôi bên thỏa thuận. Tài sản chung không có gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Trần Thị Quỳnh N đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Vo Trung H cư trú tại Hoa Kỳ; giữa đôi bên có tranh chấp

về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Trần Thị Quỳnh N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn ông Vo Trung H vắng mặt đến lần thứ hai. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Trần Thị Quỳnh N và ông Vo Trung H tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2014, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 634, quyển số 04 ngày 10/3/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà Trần Thị Quỳnh N thì cuộc sống chung giữa vợ chồng hạnh phúc bình thường đến sau khi bà sinh con vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, khác biệt về tính cách, cư xử thiếu tế nhị, thiếu sự tôn trọng lẫn nhau nên tình cảm lạnh nhạt dần, mâu thuẫn kéo dài dù gia đình hai bên cố gắng hòa giải nhưng vẫn không khắc phục được. Từ tháng 6/2015 đến nay vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Bà N xác định không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà N.

Về con chung: Lời khai của bà N xác nhận vợ chồng có một người con chung tên Vo J, sinh ngày 10/9/2014 hiện đang ở với mẹ. Khi ly hôn, bà N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và việc cấp dưỡng nuôi con do đôi bên tự thỏa thuận.

Xét, người con chung chưa thành niên hiện đang sống cùng với bà N, do bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho người con được phát triển toàn diện và được sống ổn định, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà N, giao người con chung cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với qui định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Ý kiến của bà N về việc cấp dưỡng nuôi con sẽ do đôi bên tự thỏa thuận. Xét, sự thỏa thuận của đôi bên không trái quy định pháp luật, Hội đồng xét xử ghi nhận; trường hợp không thỏa thuận được thì người trực tiếp nuôi con có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: bà N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa ánNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Quỳnh N;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Quỳnh N được ly hôn ông Vo Trung H.

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 634, quyển số 04 ngày10/3/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao bà Trần Thị Quỳnh N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung Vo J, sinh ngày 10/9/2014. Ghi nhận việc cấp dưỡng nuôi con chung do đôi bên tự thỏa thuận.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: bà N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng bà Trần Thị Quỳnh N nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng bà N đã nộp tại Biên lai thu số AA/2016/0031321 ngày07/10/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà N đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Trần Thị Quỳnh N và bị đơn ông Vo Trung H; bà Trần Thị Quỳnh N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Vo Trung H được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 543/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:543/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về