Bản án 54/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 54/2021/HS-PT NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 14 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 59/2021/TLPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Công M do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 29/03/2021 của Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Công M, sinh năm 1974 (có mặt) Nơi ĐKHKTT: Khóm T, phường T1, thành phố C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện nay: Khóm S, phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thanh B và bà: Lê Thị L; vợ: Lê Ngân T (đã ly hôn); con:

02 người; Tiền án - tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Tại Bản án số 17 ngày 16/3/1998 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc H xử phạt 18 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/1999.

- Tại Bản án số 100/2005/HSPT ngày 13/6/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2011; Về dân sự đã thi hành xong.

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/8/2020 cho đến nay tại phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Ngoài ra còn có bị cáo Nguyễn Tấn P không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Bị hại: Bà Lương Thị H, sinh năm 1967; Địa chỉ: Khóm S, phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau (vắng).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ ngày 29/6/2020, Nguyễn Công M điều khiển xe mô tô hiệu Airblade màu đen, đỏ, biển kiểm soát số 69B1-176.75 (do ông Nguyễn Thanh B cha của M chủ sở hữu) chở Nguyễn Tấn P đi từ hướng cống Kênh M, phường H, thành phố C về nhà ở phường N, thành phố C. Khi đi đến đường Nguyễn T thuộc Khóm S, phường H, thành phố C thì Phát phát hiện nhà bà Lương Thị H đang mở cửa nên nảy sinh ý định vào nhà bà H lấy trộm tài sản nhưng không nói cho M biết. P kêu M đậu xe ngoài lề đường chờ để đi vào nhà người quen; khoảng 20 phút sau P đi ra xe và ôm theo tivi 50 in hiệu TCL, màu đen. Lúc này, M thấy và hỏi P: “Bộ mày ăn trộm tivi của người ta hả gì? P trả lời “ừ”, biết được ti vi do trộm cắp nên M điều khiển xe chở P ngồi phía sau ôm tài sản trộm đến tiệm sửa chữa ti vi Nguyễn Hoàng H. Tại đây, M gặp H nói: nhà cần bán ti vi, H đồng ý mua, M bán ti vi được số tiền 3.000.000 đồng, M đưa cho P 2.000.000 đồng còn 1.000.000 đồng giữ lại, cả hai tiêu xài cá nhân. Qua trích xuất Camera để xác định đối tượng, đến ngày 30/6/2020, Công an phường H, thành phố C mời P và M làm việc cả hai khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Tại kết luận định giá số 64/KL-HĐĐG ngày 20/7/2020 của Hội đồng thẩm định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 tivi TCL 50inch, màu đen, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 75% x 9.000.000 đồng = 6.750.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công M phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công M 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật quy định.

Ngày 09/4/2021, bị cáo có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa:

Bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm tuyên là đúng; bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo vì vợ chồng đã ly hôn và vợ cũ bỏ đi để lại hai đứa con nhỏ bị cáo trực tiếp nuôi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Công M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau đã tuyên. Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan sai đối với bị cáo.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công M xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo Qua xem xét toàn diện chứng cứ, thể hiện: bị cáo Nguyễn Công M biết rõ chiếc tivi TCL 50inch là do bị cáo P trộm cắp mà có nhưng cũng vì bản chất tham lam, xem thường pháp luật, bị cáo M đem tài sản do P trộm cắp tìm nơi tiêu thụ, bán lấy tiền chi xài cá nhân. Án sơ thẩm đã xem xét về nhân thân, tính chất mức độ phạm tội và áp dụng những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt 01 năm tù. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo là không có cơ sở chấp nhận, bởi vì trường hợp của bị cáo không được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định về điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo theo Điều 65 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là hoàn cảnh khó khăn, bị cáo phải trực tiếp nuôi hai con nhỏ dưới 07 tuổi (có xác nhận của chính quyền địa phương), số tiền bị cáo chỉ nhận được là 1.000.000đ từ tiêu thụ tài sản; do đó, cấp phúc thẩm có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt; sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số:

49/2021/HS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòà đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm; tuy nhiên, Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm như căn cứ nhận định trên.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo không phải chịu.

[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Công M yêu cầu giảm nhẹ hình phạt; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số:49/2021/HS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Nguyễn Công M phạm tội“Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Điều luật áp dụng và trách nhiệm hình sự - Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 90, 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 06 (Sáu) Tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 323; điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Nguyễn Tấn P và Nguyễn Công M, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Nguyễn Công M không phải chịu.

4. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:54/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về