Bản án 54/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 54/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Mộc Châu , tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Giàng A G, sinh năm 1966 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A L và bà Thào Thị M; có vợ là Mùa Thị L, có 04 con; tiền án: Ngày 04/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt Giàng A G 24 tháng tù Gm về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong án phạt tù ngày 22/7/2019 (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2020 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 21/10/2020,Giàng A Gmang theo 200.000 đồng đi bộ từ nhà đến bản Phiêng Cành, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Tại bản Phiêng Cành, G gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi, không quen biết được 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng 05 viên Methamphetamine với giá 200.000 đồng, G cất giấu gói ma túy mua được trong túi áo khoác bên phải đang mặc rồi đi về, trên đường đi về đến Bản T, xã T, huyện M thì bị tổ công tác Công an xã Tân Lập kiểm tra, phát hiện và thu giữ: 01 gói nilon màu hồng, bên trong đựng 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY nghi là Methamphetamine.

Ngày 21/10/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành mở niêm phong, cân tịnh, xác định khối lượng 05 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Giàng A G được 0,5 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu G.

Tại Kết luận giám định số 1502 ngày 23/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu G là ma tuý, loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,5 gam, loại Methamphetamine;Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu G không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng là 0,4 gam”.

Cáo trạng số 208/CT-VKS ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố Giàng A G về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A G từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù.Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A G, bắt ngày 21/10/2020, bên trong đựng một mảnh nilon màu hồng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi niêm phong test thử ma túy của Giàng A G – sn: 1966, ngày 21/1/2020, HKTT: Bản Tà Phềnh – Tân Lập – Mộc Châu, Sơn La, kq: Dương tính; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A G - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 21/10/2020 tại xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có phong bì niêm phong gửi mẫu giám định đã bóc mở + chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu G, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,4 gam.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Giàng A Gkhai nhận toàn bộ hanh vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, số ma túy bị tổ công tác Công an xã Tân Lập, huyện Mộc Châu thu giữ của bị cáo vào ngày 21/10/2020có nguồn gốc mua được của một người đàn ông dân tộc Mông với giá 200.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Tân Lập, huyện Mộc Châu lập vào hồi 11 giờ 00 phút ngày 21/10/2020; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 1502 ngày 23/10/2020của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “Mẫu gửi giám định ký hiệu G là ma tuý, loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,5 gam, loại Methamphetamine”nằm trong danh mục II, STT: 323 Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của cơ quan Điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Giàng A Glà người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 21/10/2020bị cáo Giàng A G đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,5 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Giàng A G không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên bị áp dụng một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, có 01 tiền án (chưa được xóa án tích) cũng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời Gn nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A G, bắt ngày 21/10/2020, bên trong đựng một mảnh nilon màu hồng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi niêm phong test thử ma túy của Giàng A G – sn: 1966, ngày 21/1/2020, HKTT: Bản Tà Phềnh – Tân Lập – Mộc Châu, Sơn La, kq: Dương tính; 01 (một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A G - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 21/10/2020 tại xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có phong bì niêm phong gửi mẫu giám định đã bóc mở + chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu G, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,4 gam. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Giàng A G như bị cáo đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, do đó không có căn cứ điều tra làm rõ, vì vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Xét thấy thời hạn tạm giam bị cáo còn lại trên 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Giàng A G phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Giàng A G 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01(một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A G, bắt ngày 21/10/2020, bên trong đựng một mảnh nilon màu hồng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01(một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi niêm phong test thử ma túy của Giàng A G – sn: 1966, ngày 21/1/2020, HKTT: Bản Tà Phềnh – Tân Lập – Mộc Châu, Sơn La, kq: Dương tính; 01(một) Phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A G - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 21/10/2020 tại xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm có phong bì niêm phong gửi mẫu giám định đã bóc mở + chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu G, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,4 gam.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Giàng A G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về