TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2020 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI NUÔI CON CHUNG SAU KHI LY HÔN
Ngày 15/12/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 222/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/10/2020 về việc: Thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/11/2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1978, vắng mặt.
Địa chỉ: Khu X, thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Chị Đặng Thị S (tên gọi khác Đặng Thị X), sinh năm 1979, địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.
3. Người làm chứng:
- Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1972, vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn C, xã T1, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952, vắng mặt.
Địa chỉ: Khu Y, thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
- Bà Lê Thị C, sinh năm 1952, vắng mặt.
Địa chỉ: Xóm Z, thôn A, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, anh Đ, chị S đều trình bày: Năm 2018 khi anh Đ và chị S làm thủ tục ly hôn tại TAND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương hai bên đã thống nhất thỏa thuận giao con chung Phạm Văn T sinh ngày 11/9/2009 cho chị S nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau. Tuy nhiên, đến nay anh Đ cho rằng để đảm bảo quyền lợi của con chung và thuận tiện cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T nên anh Đ làm đơn khởi kiện xin được nuôi dưỡng cháu T, nếu được nuôi dưỡng cháu T anh Đ không yêu cầu chị S cấp dưỡng tiền nuôi con. Chị S đồng ý để anh Đ nuôi dưỡng cháu T.
Người làm chứng anh T, bà L đề nghị giao cháu T cho anh Đ nuôi dưỡng. Bà C xác định cháu T đã đủ 07 tuổi đề nghị Tòa án căn cứ vào nguyện vọng của cháu T để giải quyết việc nuôi dưỡng.
Quá trình giải quyết vụ án anh Đ, chị S đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt, chị S từ chối tham gia hòa giải và giữ nguyên quan điểm như đã trình bày ở trên.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX) và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; Điều 82, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đề nghị giao cho anh Đ nuôi dưỡng cháu T. Anh Đ phải chịu 300.000đ án phí án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, HĐXX nhận định.
[1] Về thủ tục tố tụng: Những người tham gia tố tụng đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt. Vì vậy HĐXX xét xử vụ án vắng mặt những người tham gia tố tụng, theo quy định tại Điều 227, 228, 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Xem xét yêu cầu khởi kiện của anh Đ có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung là cháu Phạm Văn T; còn chị S đồng ý giao cháu T cho anh Đ nuôi dưỡng. HĐXX thấy rằng việc giao con chung là cháu T cho ai nuôi dưỡng phải xuất phát từ lợi ích về mọi mặt của con chung và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế cuộc sống của mỗi bên đương sự.
Đánh giá điều kiện nuôi con chung của anh Đ thì thấy: Cháu Phạm Văn T sinh ngày 11/9/2009, trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với bố là anh Đ. Anh Đ có chỗ ở ổn định tại khu X, thị trấn Thanh Hà; có nghề nghiệp tự kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, nên thực tế có thu thập; bên cạnh đó do điều kiện công việc gần nơi sinh sống nên anh Đ có thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Xác minh với chính quyền khu 4, thị trấn Thanh Hà xác định anh Đ có đầy đủ các điều kiện nuôi dưỡng con chung, quá trình giải quyết vụ án chị S đồng ý giao cháu T cho anh Đ nuôi dưỡng. Căn cứ Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận quan điểm của các bên đương sự cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giao cháu T cho anh Đ nuôi dưỡng. Do anh Đ không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con chung, nên HĐXX không đặt ra để giải quyết. Chị S có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.
[3] Về án phí: Anh Đ có đơn khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, 227, 228, 229, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn Đ về việc xin thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn.
Giao cho anh Phạm Văn Đ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Phạm Văn T sinh ngày 11/9/2009 đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đ không yêu cầu chị Đặng Thị S (tên gọi khác Đặng Thị X) phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Đặng Thị S (tên gọi khác Đặng Thị X) được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
- Về án phí: Anh Phạm Văn Đ phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm dân sự, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0001970 ngày 21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về thay đổi người nuôi con chung sau khi ly hôn
Số hiệu: | 54/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về