Bản án 54/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội buôn bán hàng cấm và vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM VÀ VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45 /2019/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88 /2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Thị Ng, sinh ngày 10/10/1960, tại huyện Q,tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: xóm 5, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi ĐKNKTT: xóm 5, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/10

Con ông: Lê Văn S ( Đã chết); Con bà: Lê Thị Th; Anh chị em ruột: Có 9 người, bị cáo là con thứ ba.

Chồng: Nguyễn Sỹ Th (Đã chết), Có 2 con, sinh năm 1984 và năm 1986.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/01/2019 đến ngày 19/01/2019. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Lê Tiến L, Sinh ngày 16/12/1988, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: xóm 5, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi ĐKNKTT: xóm 5, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12

Con ông: Lê Tiến G ( Đã chết); Con bà Nguyễn Thị H

Anh chị em ruột: Có 3 người, bị cáo là con đầu.

Vợ: Nguyễn Hồng T, Có 2 con, sinh năm 2013 và năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2019 đến ngày 01/3/2019 Bị cáo tại ngoại, có mặt.

3. Nguyễn Văn Lh, sinh ngày 07/3/2000, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: xóm 8, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi ĐKNKTT: xóm 8, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12

Con ông: Nguyễn Văn L, sinh năm 1976; Con bà: Lê Thị Tr, sinh năm 1978

Anh chị em ruột: Có 2 người, bị cáo là con đầu. Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/01/2019 đến ngày 24/01/2019. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

 Bà Lê Thị Tr, sinh năm 1978 (mẹ bị cáo Nguyễn Văn Lh).

Địa chỉ: xóm 8, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Có mặt

Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1986

Địa chỉ: xóm 12, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 10 phút ngày15/01/2019, tại khu vực khối 10, phường Quỳnh Xuân,( thị xã Hoàng Mai, Nghệ An), khi Nguyễn Văn Lh đi xe máy đang chở Lê Tiến L cùng một thùng pháo thì bị tổ công tác Công an phường Quỳnh Xuân phát hiện bắt quả tang, thu giữ 10 hộp pháo có khối lượng 13,8kg, một xe mô tô và 2 điện thoại di động. Lê Tiến L khai mua pháo của Lê Thị Ng. Đến 23 giở 30 phút cùng ngày, khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Thị Ng thu giữ được 5 hộp pháo có khối lượng 6,9kg và thu giữ một điện thoại di động.

Sau khi biết Lê Tiến L và Nguyễn Văn Lh bị bắt thì Lê Thị Ng đến Công an phường Quỳnh Xuân xin đầu thú.

Quá trình điều tra xác định được: Khoảng 19 giờ, ngày 13/01/2019, một người đàn ông lạ mặt đi xe máy chở pháo đến nhà Lê Thị Ng, nói là có người gửi pháo đến cho bà. Lê Thị Ng không hẹn với người này, nhưng nghĩ lúc trước đó Lê Tiến L có hỏi mua pháo, nên Ng nhận 15 hộp pháo loại 36 quả/ hộp, và trả tiền cho người lạ đó 12.300.000 đồng. Ngay sau đó L điện hỏi Ng. Biết Ng đã có pháo, L liền đến nhà Ng. Ng đưa cho L 1 túi li lông bên trong có 10 hộp pháo loại 36 quả và gói bỏ vào thùng cát tông. Lê Tiến L nhận pháo và nói là tý nữa bán được pháo cháu về trả tiền cho, thì Lê Thị Ng nhất tr. Số pháo còn lại 5 hộp Lê Thị Ng mang vào cất nơi khu vực chuồng gà.

Lê Tiến L mang thùng cát tông đựng pháo vừa mua của Ng ra đường, điện cho Lh đến, và nói với Lh “Mi chở anh ra đây giao pháo cái”. Nguyễn Văn Lh đi xe mô tô biển kiểm soát 37L2-161.80 chở L bưng thùng pháo đi ra đến Quỳnh Xuân thì bị bắt quả tang. L khai là đem bán cho người lạ hẹn trên điện thoại.

Ngày 16/01/2019, Cơ quan CSĐT công an thị xã Hoàng Mai đã có Quyết định trưng cầu giám định, lấy ngẫu nhiên 01 hộp thu giữ của L và Lh; 02 hộp thu giữ của Ng. Tại Kết luận giám định số 158/KL-PC09(CN) ngày 21/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận về đối tượng giám định, có nội dung: “Ba mẫu vật (Ký hiệu M1, M2, M3) gửi tới giám định là pháo, có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).

*Về vật chứng, tài sản liên quan:

-Thu giữ của Nguyễn Văn Lh 01 điện thoại di động OPPO A3S và 1 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 37L2 – 161.80 do Lh điều khiển chở L và pháo; Thu giữ của Lê Thị Ng 01 chiếc điện Iphone 6 màu hồng. Qua điều tra xác định được: Xe mô tô là của bà Lê Thị Tr, sinh năm 1978,( trú tại: xóm 8, xã Q, huyện Q); Chiếc điện thoại Iphone 6 là của chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1986, (trú tại: xóm 12, xã Q, huyện Q). Các chủ sở hữu không biết các bị cáo dùng tài sản trên làm phương tiện liên quan vào việc phạm tội. Nên cơ quan CSĐT Công an thị xã Hoàng Mai đã trả lại cho các chủ sở hữu. Đồng thời trả cho Nguyễn Văn Lh 01 điện thoại di động OPPO A3S.

- Số pháo thu giữ của L và Lh còn lại 9 hộp = 12,4kg, thu giữ của Ng còn lại 3 hộp=4,4kg. Tất cả đều nhúng nước và niêm phong lại; Và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 màu đen thu giữ của Lê Tiến L đều đã chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai quản lý.

Cáo trạng số 50/VKS-HS-HM, ngày 08 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai. Truy tố ra trước Toà án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, để xét xử: Lê Thị Ng và Lê Tiến L về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 BLHS; Nguyễn Văn Lh về tội“Vận chuyển hàng cấm", theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 BLHS.

*Tại phiên toà:

- Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố, đề nghị HĐXX:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 65 BLHS, xử phạt: Lê Thị Ng từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng, về tội: Buôn bán hàng cấm; Phạt tiền bổ sung từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 BLHS, Xử phạt Lê Tiến L từ 18 đến 24 tháng tù, về tội: Buôn bán hàng cấm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS, xử phạt: Nguyễn Văn Lh từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng, về tội: Vận chuyển hàng cấm.

Tịch thu tiêu hủy số pháo nổ còn lại.

Tịch thu sung công chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo Lê Tiến L.

- Bà Lê Thị Tr (mẹ bị cáo Nguyễn Văn Lh) trình bày: Xe máy là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà, bà không biết L dùng chở pháo nổ. Nay xe đã được trả lại, nên không yêu cầu gì thêm.

- Chị Nguyễn Thị A trình bày: Chị cho bà Ng (mẹ chị) mượn điện thoại đã 1 tháng, vì điện thoại của bà hỏng. Nay đã được trả lại, nên không yêu cầu gì thêm.

- Các bị cáo hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình;

- Bị cáo L và Ng trình bày: Do kém hiểu biết pháp luật, nhẹ dạ cả tin người lạ, hám lời, nên đã phạm tội, đề nghị được chiếu cố giảm nhẹ mức án. Bị cáo L đề nghị xử phạt được cải tạo tại địa phương để có điều kiện giúp đỡ gia đình, nuôi mẹ ốm yếu và 2 con còn nhỏ. Bị cáo Lh trình bày do nể bạn bè mà chở giúp cho L, không có mục đích chở thuê kiếm tiền, đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vụ án hình sự Lê Thị Ng, Lê Tiến L “ Buôn bán hàng cấm”; và Nguyễn Văn Lh “Vận chuyển hàng cấm” xẩy ra sau thời điểm 00 giờ 00 phút ngày 01/01/2018(Thời điểm có hiệu lực thi hành Bộ luật hình sự 2015). Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành tố tụng vụ án theo quy định của BLTTHS 2015. Trình tự thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về việc áp dụng bộ luật hình sự: Kết luận đề nghị của cơ quan điều tra; Kết luận truy tố của Viện kiểm sát, và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án dựa theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 là đúng pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử đã làm rõ được diễn biến vụ án như nội dung tóm tắt vụ án đã nêu trên. Qua đó cho thấy:

Lời khai của các bị cáo Lê Tiến L, Lê Thị Ng và Nguyễn Văn Lh tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng và quá trình gây án.

Kinh doanh các loại pháo là ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; Không cho phép lưu thông tự do pháo nổ trên thị trường. Nhà nước quy định đó là hàng cấm.

Các bị cáo Lê Tiến L và Lê Thị Ng biết rõ hành vi buôn bán hàng cấm (pháo nổ) là nguy hiểm cho xã hội, Nguyễn Văn Lh biết rõ hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo nổ) là nguy hiểm cho xã hội, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi đó. Các hành vi đã và đang thực hiện thì bị bắt quả tang.

Căn cứ dấu hiệu hành vi, đặc điểm, số lượng vật chứng thì Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai truy tố Lê Tiến L và Lê Thị Ng về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 BLHS; và Nguyễn Văn Lh về tội“Vận chuyển hàng cấm", theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 BLHS là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của Lê Tiến L, Lê Thị Ng và Nguyễn Văn Lh là liều lĩnh, coi thường pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa bị cấm. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cũng như tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với các bị cáo, nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội phạm về hàng cấm nói riêng, đặc biệt là pháo nổ.

+Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là:

-Đều khai báo rõ ràng thành khẩn, ăn năn hối cải;

-Nguyễn Văn Lh phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

-Bị cáo Ng tự nguyện đầu thú;

-Bị cáo L tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm (khai báo ngay và chính xác về hành vi, địa chỉ, danh tính Lê Thị Ng), là thuộc trường hợp quy định tại điểm t khoản 1 điều 51 BLHS.

Ngoài ra còn xem xét chiếu cố để giảm nhẹ cho các bị cáo, để qua đó thể hiện sự khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội là: Các bị cáo có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu với số lượng pháo ít nên làm giảm nhẹ đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo Ng là phụ nữ, tuổi đã tương đối cao( 59 tuổi), nên cũng cần quan tâm hợp lý. Bị cáo L đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2019 đến ngày 01/3/2019 cũng đủ thời gian để bị cáo suy nghĩ kiểm điểm về sai phạm của mình.

Do đó xử phạt nghiêm đối với các bị cáo nhưng không buộc cách ly khỏi xã hội. Trong đó, bị cáo Lê Thị Ng chịu trách nhiệm với số pháo bán cho L và số pháo đang cất dấu, có tổng khối lượng là 15 hộp= 20,7kg; Lê Tiến L phải chịu trách nhiệm số pháo mua của Ng mang đi bán có khối lượng là 10 hộp= 13,8kg. Nên hình phạt đối với Ng là nghiêm khắc hơn. Nguyễn Văn Lh dùng xe máy của mình vận chuyển giúp cho L 10 hộp pháo=13,8kg, hành vi đơn giản, bột phát, nên hình phạt ít nghiêm khắc hơn so với L. Các bị cáo lần đầu buôn bán, vận chuyển pháo số lượng ít, chưa có thu lợi bất chính, nên không phạt tiền bổ sung.

Trong vụ án này, Ng là người bán, L là người mua vì lợi ích riêng tư. Không có mối quan hệ người chủ mưu cầm đầu, người thực hành, người giúp sức; Không có sự ràng buộc việc chung vốn, chia sẻ chi phí và lợi nhuận; Thậm chí L đang mua chịu pháo của Ng. Nên không có đồng phạm.

Vật chứng: Số hàng cấm còn lại là 12(Mười hai) hộp pháo có trọng lượng 16,8kg là tang vật phạm tội được niêm phong đã nhúng nước, nên tiêu hủy.

[5] Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 thu giữ của Lê Tiến L. Có căn cứ L dùng điện thoại liên lạc với Ng để mua pháo, phù hợp với lời khai của Ng. Đó là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung công.

Cơ quan điều tra đã trả xe máy và điện thoại cho các chủ sở hữu là cần thiết và đúng pháp luật, tại phiên tòa không ai yêu cầu gì thêm, nên miễn xét.

Do đó, xử phạt các bị cáo về tội danh, hình phạt chính và xử lý vật chứng như đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ. Nhưng đối với L, chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo là tương tương xứng với tính chất hành vi của bị cáo và phù hợp với hình phạt áp dụng đối với các bị cáo khác trong cùng vụ án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 BLHS.

Xử phạt Lê Thị Ng 20 (Hai mươi) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội: Buôn bán hàng cấm.

2. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s, t khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 BLHS.

Xử phạt Lê Tiến L 18 (Mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội: Buôn bán hàng cấm.

3. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 BLHS.

Xử phạt Nguyễn Văn Lh 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội: Vận chuyển hàng cấm.

Giao các bị cáo Lê Thị Ng, Lê Tiến L và Nguyễn Văn Lh cho chính quyền địa phương xã Q ( huyện Q, tỉnh Nghệ An) phối hợp cùng gia đình giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

*Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

-Tiêu hủy số pháo còn lại là 12 hộp, có trọng lượng 16,8kg đã nhúng nước.

-Tịch thu sung công một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 màu đen thu giữ của Lê Tiến L.

(Đặc điểm và số lượng vật chứng có tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Hoàng Mai và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai ngày 10/5/2019).

*Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH14.

Các bị cáo Lê Thị Ng, Lê Tiến L và Nguyễn Văn Lh, mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

* Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

445
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội buôn bán hàng cấm và vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:54/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về