Bản án 54/2019/HSST ngày 17/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 54/2019/HSST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/5/2019, tại Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 65/2019/HSST, ngày 26/4/2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/HSST-QĐ ngày 03/5/2019 đối với bị cáo:

Lương Đình N, sinh năm 1994; Giới tính: Nam; HKTT: Rừng Thông-Tô Hiệu- Bình Gia-Lạng Sơn; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Bố đẻ: Lương Văn Chuẩn, sinh năm 1961; Mẹ đẻ: Nông Thị Thôn, sinh năm 1967; Vợ là: Nông Thị Định, sinh năm 1995; Có 01 con sinh năm 2018; Gia đình có 03 chị em bị cáo là thứ 3; Tiền án, Tiền sự: Chưa có. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/3/2019 đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15h ngày 19/3/2019 N đang ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thì Đức là bạn của N điện thoại cho N hỏi mua ma túy. N đồng ý và hẹn Đức đến ngã 3 chân cầu vượt Đồng Xép, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du để bán ma túy. Sau đó N đi xe máy ra khu Cẩm, phường Đồng N, thị xã Từ Sơn mua 01 gói ma túy của một người đàn ông lạ đứng rìa đường với giá 500.000đ rồi đi xe máy đến gặp Đức. Sau khi điện thoại hỏi mua ma túy của N xong thì Đức thuê xe ôm của anh Trần Văn Khoát chở từ khu Cống Bựu, xã Liên Bão đến điểm hẹn gặp N. Đức không nói cho anh Khoát biết việc Đức thuê xe để đi mua ma túy. Đến nơi hẹn gặp N, Đức bảo anh Khoát chờ bạn cùng Đức để chở Đức về luôn. N sau khi đi xe gần đến nơi hẹn Đức thì lấy gói ma túy ra lấy một phần ma túy cho vào mảnh giấy bạc mầu trắng gói lại để bán cho Đức, phần còn lại cất vào túi áo khoác bên phải đang mặc để ai mua lại bán. Khoảng gần 16h30 cùng ngày, N đến chỗ hẹn gặp Đức đứng cùng Khoát. N đưa cho Đức gói ma túy bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng. Đức cầm gói ma túy trong tay rồi đưa cho N 300.000đ. Đúng lúc này Công an huyện Tiên Du kiểm tra bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật.

*Thu giữ của Đức: Tại lòng bàn tay phải của Đức 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng;

*Thu của N:

Tại lòng bàn tay trái 300.000đ (tiền N có được do vừa bán ma túy);

Tại túi áo khoác bên phải N đang mặc có 01 gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng (N khai gói ma túy đó N giữ nhằm để bán kiếm lời); 01 điện thoại Nokia;

Tại túi sau bên phải quần đang mặc số tiền 1.800.000đ

01 xe máy Yamaha Sirius màu đen vàng BKS 12X1-056.63;

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội cuả mình như cáo trạng đã nêu là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ N quan điểm truy tố hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Tại kết luận giám định số 328/KLGĐ-PC09 ngày 19/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 có khối lượng 0,0253g là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 0,2588g là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với kết luận giám định.

Bản cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 25/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau; Phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang và toàn bộ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ giữ N quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội cuả bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Đình N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; xử phạt bị cáo từ 28 đến 32 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2019; Phạt bị cáo từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ sung qũy nhà nước

Đề nghị áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy tang vật là số ma túy còn lại sau giám định;

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ; 01 điện thoại Nokia;

Trả lại bị cáo số tiền 1.800.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung vụ án đã thể hiện rõ: Khoảng 16h30 ngày 19/3/2019 tại Đồng Xép, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du; Công an huyện Tiên Du phát hiện và bắt quả tang Lương Đình N đang có hành vi bán trái phép 0,0253 gam ma túy chất Heroine cho Nguyễn Văn Đức với giá 300.000đ. Ngoài ra N còn cất giữ trong người 01 gói ma túy có khối lượng 0,2588g là ma túy; Loại ma túy: Heroine để nhằm mục đích bán kiếm lời;

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” phạm vào khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn ở trên là hoàn toàn phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma túy làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội cuả Nhà nước, việc đấu tranh đối với các tội phạm về ma túy hiện nay là nhiệm vụ cuả toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Bất chấp sự ngăn cấm cuả pháp luật, bị cáo đã có hành vi bán ma túy cho người khác nên đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi cuả bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma túy trên địa bàn dân cư, đây cũng là một trong những N nhân dẫn đến sự gia tăng của nhiều loại tôi phạm khác.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cuả bị cáo thì thấy; 

Tình tiết tăng nặng: Không có;

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có ông ngoại là liệt sỹ; mẹ bị cáo đã được Hội liên hiệp phụ nữ và UBND tỉnh Lạng Sơn tặng Bằng khen và được UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng kỷ niệm chương, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

Từ những phân tích trên xét cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ giáo dục đối với bị cáo;

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bán ma túy nhằm mục đích thu lời bất chính nên cần phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ nhà nước;

Về vật chứng: Áp dụng điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; Số tiền 300.000đ thu giữ của bị cáo là tiền có được từ việc bán ma túy nên cần tịch thu sung qũy nhà nước. 01 chiếc điện thoại Nokia là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc vào việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước;

Số tiền 1.800.000đ là tiền hợp pháp của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. 01 xe máy Yamaha Sirius màu đen vàng BKS 12X1-05663 N sử dụng để đi mua ma túy và mang ma túy đi bán cho Đức; quá trình điều tra xác định xe máy là tài sản của chị Nông Thị Nguyệt có địa chỉ tại Phố Mới-Vạn Linh-Chi Lăng-Lạng Sơn; Chị Nguyệt đã cho anh trai là Nông Văn Ngân mượn xe làm phương tiện đi làm; N mượn xe máy của anh Ngân để đi tìm việc làm; Việc N sử dụng xe đi mua và bán ma túy anh Ngân không hề biết nên cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Ngân và không xử lý với anh Ngân là phù hợp;

Đối với Đức là người mua ma túy của N; N mới quen Đức và chỉ biết tên gọi là Đức không biết rõ nhà cửa tại đâu; quá trình điều tra Đức lợi dụng sơ hở bỏ trốn, cơ quan điều tra căn cứ theo địa chỉ Đức đã khai để tiến hành xác minh nhưng đến nay chưa làm rõ con người cụ thể nên tách ra khi nào làm rõ xử lý sau với Đức là phù hợp;

Đối với anh Khoát là người lái xe ôm chở Đức đi mua ma túy; anh Khoát không biết việc Đức thuê xe chở đi nhằm mục đích mua ma túy nên cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Khoát là phù hợp;

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đức tại khu vực thị xã Từ Sơn, dựa vào lời khai của Đức không đủ căn cứ để xác định con người cụ thể nên cơ quan điều tra tách ra khi nào làm rõ xửa lý sau là phù hợp;

Đối với chiếc điện thoại Đức sử dụng liên lạc với N trao đổi việc mua ma túy theo lời khai của Đức, Đức mượn điện thoại của một người lạ ngồi cùng khi uống nước tại quán nước ở Cống Bựu, xã Liên Bão để gọi sau đó lại trả điện thoại cho người đàn ông đó nên không làm rõ được đối nguồn gốc chiệc điện thoại đó và không xử lý được nên không đề cập xem xét xử lý;

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định cuả pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Đình N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; Điều 38; Điều 47; Điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 329 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTV Quốc Hội;

Xử phạt: Lương Đình N 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2019;

Phạt bị cáo 5.000.000đ sung quỹ nhà nước;

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Tịch thu tiêu hủy tang vật là số ma túy còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ, chiếc điện thoại Nokia;

Trả lại bị cáo 1.800.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tất cả các tang vật hiện có theo biên bản bàn giao tang vật ngày 26/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh).

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HSST ngày 17/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về