Bản án 54/2019/HS-ST ngày 13/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 13/09/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2019/HSST-QĐ ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đỗ Hoàng A (Tên gọi khác: HA), sinh năm 1993 tại Thái Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn LX, xã SB, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đỗ V và bà Nguyễn Thị Thu Th; Bị cáo có vợ và 03 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/3/2019 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hồ Thị N – Văn phòng Luật sư Hồ N thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận (có mặt).

- Bị hại: Anh Võ Thành H, sinh năm 1988 (có mặt)

Trú tại: Khu phố LN, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1973 (có mặt)

Trú tại: Thôn LX, xã SB, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

- Người tham gia tố tụng khác (Người làm chứng):

+ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1973 (có mặt)

+ Anh Lê Minh T, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Cùng trú tại: Khu phố LT, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

+ Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 2000 (vắng mặt) 

HKTT: Khu phố BS, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

Hiện trú tại: Thôn CV, xã SB, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

+ Cháu Nguyễn Thị Hương Ng, sinh ngày 29/11/2002 (có mặt)

Người giám hộ: Bà Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1973-là mẹ ruột của cháu Ng (có mặt)

+ Ông Nguyễn Văn B1, sinh năm 1976 (vắng mặt)

+ Ông Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1955 (vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Công B2, sinh năm 1986 (có mặt)

+ Ông Nguyễn Đỗ V, sinh năm 1969 (có mặt)

Cùng trú tại: Thôn LX, xã SB, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

+ Ông Nguyễn Văn B3, sinh năm 1968 (vắng mặt)

Trú tại: Thôn 3, xã PS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 12/8/2018 Nguyễn Đỗ Hoàng A (Tức HA) điều khiển xe mô tô hiệu Dream II (không rõ biển số) chở Nguyễn Văn C, sinh năm 2000 ở thôn CV, xã SB, huyện BB đi mua card điện thoại, trên đường về, khi chảy qua quán cơm Thọ Dung ở Thôn LX, xã SB, huyện BB (cách nhà của A khoảng 500 mét), A thấy Nguyễn Văn M, sinh năm 1973; ở khu phố LT, thị trấn LS, huyện BB, đang ngồi trong quán Thọ Dung, nơi ông Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1955 đang đào lỗ trồng trụ; A dừng xe lại, A và C xuống xe đi bộ vào nơi M đang ngồi, A dùng tay kẹp vai của M và bảo M ra ngoài cho A hỏi chuyện, M thấy không quen biết A nên M không đi, thì A và C dùng tay, chân đấm, đá vào vùng mặt, bụng và đầu của M, làm M té xuống đất, A kéo tóc của M lên và ấn đầu M xuống đất, sỏi gây chảy máu ở đầu; thấy vậy, ông Thọ vào can ngăn thì A và C thả M ra; A chửi M: “Mày láo cá biết tay tao, bọn cướp đất”! Sau đó, A lấy xe mô tô chở C về nhà của A ở thôn LX, xã SB.

Vừa lúc này, Võ Thành H, sinh năm 1988, ở khu phố LN, thị trấn LS, huyện BB (là cháu họ của M) đang ngồi nhậu trong quán Tuyết Như ở gần đó, nghe đánh nhau ở quán Thọ Dung nên đến xem thì thấy trên đầu của M chảy máu, H hỏi M: Sao vậy?, M trả lời: Bị hai thanh niên lạ mặt đánh và M hỏi thăm mọi người xung quanh (không rõ ai) thì nghe nói: A là con ruột của Nguyễn Đỗ V, sinh năm 1969 ở thôn LX, xã SB; nên M điều khiển xe mô tô biển số 86B2-140.86 chở H đến nhà của A để hỏi lý do vì sao A đánh M? M chở H dừng xe trên lề đường trước cổng nhà của V, thì Nguyễn Thị Hương Ng, sinh năm 2000 ở thôn LX, xã SB (là em ruột của A) chạy xe mô tô về nhà nhìn thấy Nguyễn Văn M và Võ Thành H nên Ng chạy vào lô đất trống ở gần nhà, nơi A và C đang tưới nước cây kiểng, Ng kêu to: anh HA ơi!; nghe tiếng kêu, A và C nhìn ra thì thấy M đang đi bộ về hướng A và C, nên A và C mỗi người lấy 01 khúc cây gỗ dài khoảng 1,2 mét, đường kính khoảng 05cm ở gần đó cầm trên tay chạy ra rượt đánh M; C cầm cây rượt đánh M, thì A nhìn thấy Võ Thành H đang cầm khúc cây dài khoảng hơn 01 mét, đường kính khoảng 05cm đứng ở gần cổng nhà V và cùng lúc này A nhìn thấy có một cây rựa phát dài khoảng hơn 01mét nằm trên đường đi ở gần chỗ M bị đánh té ngã. A ném bỏ cây gỗ xuống đường và nhặt lấy cây rựa cầm trên tay chạy đến chỗ H và đánh nhau với H. A cầm cây rựa bằng hai tay chém H 01 nhát từ trên xuống vào bã vai trái của H, H lách người tránh thì trúng vào vùng ngực; H cầm cây gỗ đánh trả lại trúng vào mang tai trái của A, nhưng không gây thương tích gì, A tiếp tục cầm cây rựa bằng hai tay chém H trúng vào vùng ngực, bụng bên phải; H thụt lùi bị té ngã ngửa người xuống mương thoát nước bên lề đường ở gần đó, A tiếp tục xông tới hai tay cầm cây rựa chém một cái trúng vào vùng trán của H, làm H không đứng dạy được và nằm ngửa người dưới mương thoát nước. A dang hai chân ra đứng trên thành mương và cầm cây rựa bằng hai tay khom người xuống chém liên tiếp nhiều nhát vào người của H làm H ngất xỉu; Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1973 (là mẹ ruột của A) đứng trong sân nhà nhìn thấy A chém H nên chạy ra kéo A vào trong nhà.

Vừa lúc này, Lê Minh T, sinh năm 1984 ở khu phố LT, thị trấn LS chạy xe ô tô biển số 86A-033.11 chở Nguyễn Văn B3, sinh năm 1968 ở thôn 3, xã PS, huyện BB đi ngang qua, thấy đánh nhau nên dừng xe lại, cách nhà của Nguyễn Đỗ V khoảng 40 mét, cùng lúc Nguyễn Đỗ V chạy xe mô tô về và nhìn thấy T, B3 nên khi tới nhà V bảo A, C vào nhà đóng cửa cổng lại; B3, M và T đi đến trước cổng nhà của V dùng dao chém vào cửa cổng và dùng đá ném vào nhà của V, thì V lấy 01 cây tuýp sắt, A cầm cây rựa và C cầm cây gỗ xông ra rượt đuổi đánh nhóm của T, B3, M; lúc này có Nguyễn Công B2, sinh năm 1986 ở thôn LX, xã SB (là cháu gọi V bằng cậu) cầm dao cùng tham gia với nhóm của V rượt đánh nhóm của T, B3 M bỏ chạy, để lại xe ô tô 86A-033.11 thì A lên xe ô tô điều khiển chạy rượt đuổi theo nhóm của T, B3, M nhưng không được. Sau đó, A chạy xe ô tô nói trên đến giao nộp cho Công an xã SB và Nguyễn Thị Thu Th là mẹ của A mang xe mô tô biển số 86B2-140.86 đến giao nộp cho Công an xã SB tạm giữ.

Võ Thành H bị thương được người dân ở đó đưa đến Trạm y tế xã SB cấp cứu; sau đó, chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận cấp cứu và điều trị vết thương, đến ngày 22/8/2018 thì xuất viện về nhà, H có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 402/2018/TgT ngày 01/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Võ Thành H như sau:

-Vết thương chấn thương vùng trán trái, vỡ lún sọ trán trái, đã được phẫu thuật điều trị hiện khuyết sọ vùng trán trái. Vết sẹo liền tốt, kích thước 08 x 0,2 cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 20%.

-Vết thương vùng ngực, bụng bên phải, đứt xương sườn VI, VII, VIII, IX, X, thấu ngực bụng, thủng cơ hoành, thủng gan hạ phân thùy V – VIII, rách gan hạ phân thùy IV tràn dịch màng phổi hai bên, tràn khí màng phổi phải, đã được phẫu thuật điều trị hiện ổn định, để lại sẹo liền tốt kích thước 18 x 0,5 cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 30% + 21% + 11% + 5%.

-Vết thương mặt lòng bàn tay trái, mẻ xương bàn I ngón I bàn tay trái đã được điều trị. Hiện ổn định sẹo lành, kích thước 05 x 0,2 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 3%.

-Vết thương phần mềm vùng trán phải kích thước 05 x 0,2 cm; sẹo vết thương phần mềm vùng gò má phải, kích thước 03 x 0,3 cm; sẹo vết thương vùng cằm kích thước 2,5 x 0,2 cm; gãy xương bàn V ngón V bàn tay trái. Không thể hiện trong giấy chứng nhận thương tích số 265/8/2018/CN do Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận cấp ngày 28/8/2018. Nên không tính tỷ lệ và vật gây thương.

-Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 64% (sáu bốn phần trăm).

-Các vết thương trên do vật sắc gây ra.

-Vết thương vùng trán trái có chiều hướng tác động từ trước ra sau.

-Sẹo vết thương ngực, bụng bên phải có chiều hướng tác động từ trước ra sau.

*Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 96/2019/TgT ngày 12/02/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận, kết luận thương tích của Võ Thành H như sau:

-Sẹo vết thương phần mềm vùng trán phải, hiện để lại sẹo liền tốt, kích thước 05 x 0,1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 2%.

-Sẹo vết thương phần mềm gò má phải hình vòng cung, hiện để lại sẹo mờ, kích thước 02 x 0,1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 1%.

-Sẹo vết thương phần mềm vùng cằm, hiện để lại sẹo mờ, kích thước 2,5 x 0,2 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 1%.

-Chấn thương bàn tay trái, gãy kín xương bàn ngón V bàn tay trái hiện ổn định. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 6%.

-Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 10% (một không phần trăm).

-Vết thương vùng trán phải, gò má phải và vùng cằm do vật sắc gây ra.

-Vết thương bàn tay trái do vật tày gây ra.

*Tổng cổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên bao gồm các vết thương giám định trước đây và các vết thương giám định bố sung hiện nay là 68% (64% + 10%) (sáu tám phần trăm).

Quá trình điều tra, Nguyễn Đỗ Hoàng A đã khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên và còn khai nhận: Khi nghe Ng kêu “A HA ơi”, thì A nhìn ra thấy Nguyễn Văn M cầm rửa phát rượt chém Nguyễn Thị Hương Ng 01 cái nhưng không trúng. A chạy đến chụp tay M lại và sau đó, chính A là người cầm cây gỗ đánh Nguyễn Văn M, làm cây rựa M cầm trên tay rớt xuống đất và A nhặt cây rựa chạy đến đánh nhau với H, khi thấy C và H cầm cây gỗ đánh nhau tại cửa cổng nhà của A; nhưng Nguyễn Thị Hương Ng lại khai nhận, Võ Thành H là người cầm cây tre chạy vào trước đánh Ng một cây thì bị Nguyễn Đỗ Hoàng A chạy tới chụp cây tre lại và Nguyễn Văn C khai nhận, C là người cầm cây rượt đuổi đánh Nguyễn Văn M khi M đi vào hướng khu đất trống, chứ không đánh nhau với Võ Thành H. Do đó lời khai trên của Nguyễn Đỗ Hoàng A là không có căn cứ chấp nhận.

Đối với hành vi của Nguyễn Văn C cầm cây gỗ chạy ra đánh nhau với Nguyễn Văn M, nhưng không gây thương tích gì cho M; đồng thời C và A không bàn bạc gì về việc đánh nhau với M và H; C cũng không giúp sức gì cho A gây thương tích cho H. Hành vi nêu trên của C là mang tính bộc phát và độc lập, không có căn cứ để xác định vai trò đồng phạm với A, nên Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Bình đã chuyển hồ sơ đến Công an xã SB, huyện BB xem xét, xử lý hành chính đối với C là đúng quy định pháp luật.

Sau khi Nguyễn Đỗ Hoàng A gây thương tích cho Võ Thành H, thì nhóm của T, B3, M đến chém vào cửa cổng và ném đá vào nhà của Nguyễn Đỗ V, V lấy cây tuýp sắt cùng với A và C rượt đuổi đánh nhóm của T, B3, M, thì bị nhóm của T, B3, M đánh trả lại làm V bị thương ở gần đốt ngón I và đi bệnh viện khâu vết thương, bó bột. Nhưng trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã yêu cầu Nguyễn Đỗ V cung cấp giấy chứng nhận thương tích, nhưng V không cung cấp, không có yêu cầu gì và cũng không biết ai gây thương tích cho V. Đến ngày 18/3/2019, V mới làm đơn yêu cầu giám định thương tích và giao nộp giấy chứng nhận thương tích, Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định thương tích cho V, nhưng đến nay chưa có kết quả, nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ và khi có kết quả giám định tỷ lệ thương tích của Nguyễn Đỗ V sẽ xem xét, xử lý sau.

Đối với vết thương trên đầu của Nguyễn Văn M do Nguyễn Đỗ Hoàng A gây ra tại quán Thọ Dung, M có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu gì khác, nên không xem xét giải quyết.

Về tang, vật chứng của vụ án: Cơ quan Công an đã thu giữ một cái nón kết bằng vải, màu trắng, dính máu là nón của Võ Thành H là vật chứng liên quan đến vụ án, đã chuyển vào kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 cây rựa phát dài khoảng hơn 01 mét mà Nguyễn Đỗ Hoàng A dùng để chém Võ Thành H gây thương tích và 02 khúc cây gỗ, mỗi cây dài khoảng 1,2 mét, đường kính khoảng 05cm mà Nguyễn Văn C và Nguyễn Đỗ Hoàng A dùng đánh nhau; A và C đều khai: Sau khi đánh nhau đã ném bỏ lại hiện trường, Cơ quan Công an đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy, nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

Đối với xe mô tô biển số 86B2-140.86 của Nguyễn Văn M và xe ô tô biển số 86A-033.11 của Lê Minh T, Công an xã SB đã tạm giữ và giao trả lại cho M và T, nên không xem xét, xử lý.

Về phần dân sự Nguyễn Đỗ Hoàng A đã tác động gia đình và Nguyễn Thị Thu Th (là mẹ ruột của A) đến gia đình Võ Thành H thỏa thuận bồi thường chi phí điều trị thương tích và các chi phí khác với số tiền là 40.000.000đồng. Võ Thành H và gia đình đã nhận đủ số tiền trên và có đơn bãi nại và đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Nguyễn Đỗ Hoàng A nên không xem xét, giải quyết phần dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKS.HBB ngày 28/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình đã truy tố Nguyễn Đỗ Hoàng A về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên đề nghị áp dụng: Điểm d khoản 4 Điều 134; các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt Nguyễn Đỗ Hoàng A từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất với vị đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng điều, khoản về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; nhưng đề nghị xem xét lại tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo và xem xét vụ việc xảy ra có phần lỗi của bị hại đã cầm cây tìm đến nhà của bị cáo trước. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo theo mức thấp nhất quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự.

- Bị hại tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]-Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]-Người làm chứng Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn B3, Nguyễn Văn B1, Lê Minh T, Nguyễn Văn Th1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ ba nhưng vắng mặt tại phiên tòa, xét thấy những người làm chứng đã có đầy đủ lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ của vụ án đã rõ ràng. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3]-Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 12/8/2018, Nguyễn Đỗ Hoàng A cầm cây rựa bằng hai tay chém H 01 nhát từ trên xuống vào bã vai trái của H, H lách người tránh thì trúng vào vùng ngực; H cầm cây gỗ đánh trả lại trúng vào mang tai trái của A, nhưng không gây thương tích gì, A tiếp tục cầm cây rựa bằng hai tay chém H trúng vào vùng ngực, bụng bên phải; H thụt lùi thì bị té ngã ngửa người xuống mương thoát nước bên lề đường ở gần đó, A tiếp tục xông tới hai tay cầm cây rựa chém một cái trúng vào vùng trán của H, làm H không đứng dạy được và nằm ngửa người dưới mương thoát nước. A dang hai chân ra đứng trên thành mương và cầm cây rựa bằng hai tay khom người xuống chém liên tiếp nhiều nhát vào người của H làm H ngất xỉu.

*Tại các Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 402/2018/TgT ngày 01/10/2018 và số 96/2019/TgT ngày 12/02/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Võ Thành H tổng cộng là 68% (64% + 10%) (sáu tám phần trăm).

Từ cơ sở trên, nhận thấy xuất phát từ việc bi hại Võ Thành H cầm cây cùng ông Nguyễn Văn M đến nhà cha mẹ của bị cáo tìm bị cáo để hỏi chuyện trước đó bị cáo đánh ông Nguyễn Văn M, bị cáo đã dùng rựa là hung khí nguy hiểm, gây thương tích cho anh Võ Thành H, với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên 68%, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với các tình tiết tăng nặng định khung “Dùng hung khí nguy hiểm” “Có tính chất côn đồ” theo điểm a, i khoản 1; khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét hành vi nêu trên của bị cáo không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác, mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi của bị cáo là hết sức manh động, thể hiện tính côn đồ, xem thường pháp luật, nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, đồng thời để răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo.

[4]-Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi bị bắt và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải; bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị hại có đơn bãi nại và tại phiên tòa tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị hại phần nào cũng có lỗi khi cầm cây đi tìm bị cáo trước, mặc dù bị hại không có mâu thuẫn gì với bị cáo, chỉ nghe ông M trình bày lại sự việc ông M bị bị cáo đánh rồi bị hại cầm cây cùng ông M đi đến nhà cha mẹ của bị cáo tìm bị cáo. Sau khi phạm tội, bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường toàn bộ chi phí điều trị thương tích cho bị hại, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo.

[5]-Xét ý kiến luận tội của Vị đại diện Viện kiểm sát, quan điểm bào chữa của Luật sư và ý kiến của Bị hại, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ như nêu trên; bị hại cũng có phần lỗi, bị hại tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; ngoài ra, bị cáo là lao động chính trong gia đình có vợ và ba con còn rất nhỏ; nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự, như đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo là có căn cứ.

[6]-Về xử lý vật chứng: Cơ quan Công an đã thu giữ 01 (một) cái nón kết bằng vải, màu trắng, dính máu là nón của Võ Thành H là vật chứng liên quan đến vụ án, không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7]-Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm d khoản 4 Điều 134; các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1-Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đỗ Hoàng A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2-Xử phạt bị cáo Nguyễn Đỗ Hoàng A 06 (sáu ) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2019.

3- Về xử lý vật chứng: p dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) cái nón kết bằng vải, màu trắng, dính máu.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/5/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Bình).

4-Về án phí: p dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Đỗ Hoàng A phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (13/9/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2019/HS-ST ngày 13/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:54/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về