TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 54/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 29/11/2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 352/2019/TLST-HNGĐ ngày 27/8/2019 về việc:“Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2019/QĐST – HNGĐ ngày 14/11/2019 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Hà Thị L, sinh năm 1975;
Nơi ĐKNKTT: Xóm 2, thôn Khe, xã Cộng H, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do, có mặt.
-Bị đơn: Anh Phạm Văn L, sinh năm 1974;
Nơi ĐKNKTT: Xóm 2, thôn Khe, xã Cộng H, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do, vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/8/2019, bản tự khai và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Hà Thị L trình bày: Tôi và anh Phạm Văn L xây dựng gia đình với nhau từ năm 1996 nhưng đến năm 2006, tôi và anh Long mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ngày 17/7/2006. Chúng tôi xây dựng gia đình với nhau hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 06 tháng. Sau khi kết hôn, chúng tôi sống chung tại xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc bình thường cho đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do anh Long thường xuyên say rượu, mỗi lần say rượu anh Long lại gây sự với tôi, chửi bới, đánh đập tôi và đập phá đồ đạc trong nhà. Chính vì anh Long suốt ngày rượu chè, kinh tế gia đình khó khăn nên năm 2003, tôi quyết định đi làm thuê để kiếm tiền nuôi con. Đến năm 2016, tôi quay về cùng anh Long và hai con ra xã Cộng H, thành phố P làm ăn sinh sống. Từ khi vợ chồng về tiếp tục chung sống thì anh Long vẫn không thay đổi thói quen uống rượu, say xỉn chửi bới và đập phá đồ đạc. Tôi đã nhiều lần bỏ qua cho anh Long, khuyên nhủ anh Long nhưng anh Long không chịu thay đổi mà càng ngày càng uống nhiều rượu, say rượu nhiều hơn. Khoảng tháng 7/2019, anh Long say rượu đã đập phá hết đồ đạc trong gia đình, mang xe máy ra đập và đốt cháy, tôi đã phải báo công an xã Cộng H đến can thiệp, giải quyết. Cũng từ tháng 7/2019 cho đến nay tôi không dám về nhà, phải đi ở nhờ nhà họ hàng, mâu thuẫn của vợ chồng đã được thôn xóm hòa giải nhiều lần nhưng anh Long không thay đổi. Tôi xét thấy không thể tiếp tục sống chung với anh Long được nữa, tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Long để ổn định cuộc sống. Tôi và anh Long có hai con chung là Phạm Thị Ngọc, sinh ngày 10/11/1996 và Phạm Văn Thành, sinh ngày 17/9/2000 đều đã thành niên, không bị hạn chế (hoặc mất) năng lực hành vi dân sự nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Về tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Không có.
Đối với bị đơn anh Phạm Văn L: Tòa án nhân dân thành phố P đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P để giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị L đối với anh Phạm Văn L nhưng đều vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hà Thị L. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P nhận thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị L. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Cuộc hôn nhân giữa chị Hà Thị L và anh Phạm Văn L là hôn nhân hợp pháp, thời điểm chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1996, thời điểm đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ngày 17/7/2006. Cuộc sống chung của chị chị L và anh Long hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân như chị L trình bày nêu trên. Chị L xét thấy không còn tình cảm với anh Long, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Long để ổn định cuộc sống; tại đơn trình bày ý kiến về việc thụ lý vụ án của anh Phạm Văn L đề ngày 11/9/2019. Anh Long có quan điểm muốn vợ chồng khắc phục mâu thuẫn, không muốn con cái sống cảnh có mẹ thì không có bố, nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Long đều vắng mặt không có lý do nên không rõ quan điểm của anh Long về tình trạng hôn nhân của vợ chồng, anh Long có còn tình cảm với chị L hay không. Chị L và anh Long có hai con chung là Phạm Thị Ngọc, sinh ngày 10/11/1996 và Phạm Văn Thành, sinh ngày 17/9/2000 đều đã thành niên, không bị hạn chế (hoặc mất) năng lực hành vi dân sự nên chị L không yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Chị L xác định là không có; anh Long không có mặt nên không rõ quan điểm của anh Long về phần tài sản chung, nợ chung.
[2]Tòa án nhân dân thành phố P đã tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi chị Hà Thị L và anh Phạm Văn L cư trú, được đại diện khu phố cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân của chị L và anh Long đúng như chị L đã trình bày nêu trên.
[3]Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như nêu trên, đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ quy định tại các Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Hà Thị L và anh Phạm Văn L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh Long; đối với con chung của chị L và anh Long là Phạm Thị Ngọc, sinh ngày 10/11/1996 và Phạm Văn Thành, sinh ngày 17/9/2000 đều đã thành niên, không bị hạn chế (hoặc mất) năng lực hành vi dân sự nên không đề cập giải quyết. Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu giải quyết; về nợ chung: Chị L xác định là không có, anh Long không có mặt nên không rõ quan điểm của anh Long về phần tài sản chung, nợ chung nên không đề cập.
[4] Về án phí: Chị Hà Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Hà Thị L đối với anh Phạm Văn L. Chị Hà Thị L được ly hôn với anh Phạm Văn L.
Về con chung: Chị Hà Thị L và anh Phạm Văn L có hai con chung là Phạm Thị Ngọc, sinh ngày 10/11/1996 và Phạm Văn Thành, sinh ngày 17/9/2000 đều đã thành niên, không bị hạn chế (hoặc mất) năng lực hành vi dân sự nên không đề cập.
Về tài sản chung: Chị Hà Thị L không yêu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Chị Hà Thị L xác định là không có. Về án phí: Chị Hà Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004753 ngày 27/8/2019 của Chi cục Thi thành án dân sự thành phố P. Chị L đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Vắng mặt bị đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 54/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 54/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về