Bản án 54/2018/HS-ST ngày 04/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 54/2018/HS-ST NGÀY 04/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 30 tháng 8 và ngày 04 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa ánnhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:42/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xétxử số 51/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn L, sinh năm 1995 tại tỉnh Tiền Giang;

Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha không rõ, mẹ là bà Nguyễn Thị T; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 16/3/2018, chuyển sang tạm giam từ ngày 25/3/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Văn D1, sinh năm 1993 tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và bà Trần Thị Đ; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ ngày 16/3/2018, chuyển sang tạm giam từ ngày25/3/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Đặng Thành N, sinh năm 1998 tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn S và bà Nguyễn Thị H; vợ, con chưa có; tiền án: Tại bản án số 27/2018/HSPT ngày 14/3/2018 của Tòa án N dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ; tiền sự: không; Bị cáobị bắt, tạm giam từ ngày 13/7/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Trần Văn C, sinh ngày 15/6/2001 tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh T và bà Nguyễn Thị O; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

4. Đào Trung D, sinh ngày 09/02/2001 tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn D và bà Đinh Thị Kim T; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

6. Tăng Minh P, sinh ngày 10/10/2000 tại tỉnh Tây Ninh;

Nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Văn K và bà Nguyễn Thị S; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Văn C:

Ông Trần Thanh T, sinh năm 1976

Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1977

Cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Là cha mẹ bị cáo. (có mặt)

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đào Trung D:

Ông Đào Văn D, sinh năm 1975

Bà Đinh Thị Kim T, sinh năm 1977

Cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Là cha mẹ bị cáo. (có mặt)

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Tăng Minh P:

Ông Tăng Văn K, sinh năm 1982

Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1983

Cùng địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Là cha mẹ bị cáo. (có mặt)

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn C: Bà Võ Thị Tú Quyên - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tây Ninh (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Tăng Minh P: Bà Trần Hồng Hạnh - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tây Ninh (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Đào Trung D: Bà Trần Hồng Hạnh - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tây Ninh (có mặt).

* Bị hại: Ông Dương Văn H, sinh năm 1960 (có mặt) Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Châu Hoài P, sinh năm 1991 (có mặt) Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

2. Anh Châu Tấn K, sinh ngày 03/3/2002 (có mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

3. Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1970 (có mặt) Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

4. Anh Trần Văn M, sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

5. Chị Trần Thị Cẩm H, sinh năm 1995 (có mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

6. Bà Đào Thị D, sinh năm 1984 (có đơn vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

7. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978 (có mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

8. Anh Phạm Hùng E, sinh năm 1985

Địa chỉ: Số 502/47, đường T, phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của Châu Tấn K: ông Châu Văn S, sinh năm1973 (có mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn dân sự:

1. Ông Trần Thanh T, sinh năm 1976

2. Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1977

Cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

3. Ông Đào Văn D, sinh năm 1975

4. Bà Đinh Thị Kim T, sinh năm 1977

Cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

5. Ông Tăng Văn K, sinh năm 1982

6. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1983

Cùng địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

7. Ông Châu Văn S, sinh năm 1973

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 15 tháng 3 năm 2018, ông Dương Văn H, sinh năm 1960, trú tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tây Ninh kiểm tra lại camera ghi hình gắn tại tiệm tạp hóa của gia đình thì phát hiện vào đêm 14 rạng sáng 15 tháng 3 năm 2018 có người lén lút đột nhập vào tiệm lấy trộm máy bơm nước nên ông H đến Công an xã B trình báo sự việc. Qua trích xuất camera, Công an xã B phát hiện người lấy trộm máy bơm nước của ông H là Nguyễn Văn L và Trần Văn C. Nguyễn Văn L là người làm thuê tại tiệm tạp hóa của ông Dương Văn H từ năm2014. L được ông H tin tưởng nên cho ngủ lại tại tiệm trông coi tài sản. Đến cuối năm 2017, do muốn có tiền tiêu xài, L bắt đầu nảy sinh ý định lấy trộm máy bơm nước tại tiệm của ông H đem bán. L rủ Trần Văn D1, Đặng Thành N cùng tham gia. Sau đó, N rủ thêm Trần Văn C, Đào Trung D là bạn của N. C rủ thêm Châu Tấn K và Tăng Minh P cùng tham gia trộm cắp tài sản. Do L ngủ lại tại tiệm nên biết rõ vị trí để máy bơm nước, sau khi bàn bạc và thống nhất thực hiện, đợi đến khuya hơn 23 giờ, khi mọi người xung quanh đã ngủ say, L chủ động điện thoại kêu các bị cáo khác đến. Trước khi đi L và D1 chuẩn bị 02 bao bố, dây cột. D1 chuẩn bị xe mô tô hiệu Wave biển số 70B1-511.92 hoặc xe mô tô hiệu Dream biển số 70H4-2500 để làm phương tiện đi trộm máy bơm nước. Khi đến nơi, tất cả leo tường rào vào trong và cùng L lấy trộm máy bơm nước chuyền ra cạnh tường rào rồi leo ra ngoài. L đứng trong tường rào chuyền máy bơm nước ra ngoài để những người tham gia trộm bỏ vào 02 bao bố, dùng dây cột bao lại và các bị cáo thay phiên nhau chở về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 dùng xe mô tô màu xanh không biển số, có kéo thùng lôi tự chế chở số máy bơm nước trộm được đến bán cho anh Châu Hoài P, sinh năm 1991, trú tại ấp B, xã B, huyện C, số tiền có được chia nhau tiêu xài cá N. Trong thời gian từ cuối năm2017 đến ngày 15 tháng 3 năm 2018, L cùng D1, N, C, D, P, K đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 10 lần, chiếm đoạt 146 máy bơm nước hiệu Bảo Long Jet-100 trị giá 131.400.000 đồng của ông Dương Văn H. Cụ thể các lần phạm tội như sau:

- Lần thứ nhất: không xác định rõ ngày tháng năm 2017, L đến gặp D1 hỏi có biết chỗ nào mua máy bơm nước không, nếu có L sẽ giao máy bơm nước cho D1 đem bán, lấy tiền chia nhau tiêu xài, D1 trả lời là có. Khoảng hơn 23 giờ, L điện thoại kêu D1 đến tiệm tạp hóa của ông H, D1 điều khiển xe mô tô hiệu Wave biển số 70B1-511.92 đến. Khi đến nơi L đứng bên trong hàng rào chuyền 06 máy bơm nước ra ngoài cho D1, 02 bao bố, dây để D1 đựng và cột lại. D1 chở số máy bơm nước về nhà cất giấu. Hôm sau, D1 dùng xe lôi tự chế chở máy bơm nước đến bán cho anh Châu Hoài P với giá 700.000 đồng/cái. D1 nói với L bán được 400.000 đồng/cái và chia cho L số tiền 1.200.000 đồng.

- Lần thứ hai: không xác định rõ ngày tháng năm 2017, L rủ N đi lấy trộm máy bơm nước tại tiệm của ông H, lấy tiền chia nhau tiêu xài. N đồng ý và rủ Đào Trung D đi cùng. D điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu xanh, biển số 70F1-8562 chở N đến tiệm của ông H. Khi đến nơi N leo rào vào cùng với L lấy trộm 10 máy bơm nước chuyền ra ngoài cho D và 02 bao bố, dây để D đựng và cột lại. D chở máy bơm nước về nhà D1. Lần này D1 không trực tiếp đi lấy trộm mà ở nhà mở cửa chờ D chở máy bơm nước về cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đến bán cho anh P với giá 850.000 đồng/cái. D1 nói với L bán được 700.000 đồng/cái và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 1.750.000 đồng.

- Lần thứ ba: không xác định rõ ngày tháng năm 2018, khi đang uống trà sữa tại quán Tiến Lên gần khu vực ngã tư chợ B, L tiếp tục rủ N và D đi lấytrộm máy bơm nước. N và D đồng ý. Lúc này, N rủ Trần Văn C cùng tham gia. C đồng ý. N, D, C tập trung tại nhà D1 rồi dùng xe Dream biển số 70H4-2500 đến tiệm của ông H. Tất cả leo rào vào cùng L lấy trộm 15 cái máy bơm nước. C và D thay phiên nhau chở máy bơm nước về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đến bán cho anh P với giá 850.000 đồng/cái. D1 nói với L chỉ bán được 700.000 đồng/cái và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 2.100.000 đồng.

- Lần thứ tư: không xác định rõ ngày tháng năm 2018, L rủ C và D đi lấy trộm máy bơm nước tại tiệm ông H. Cả ba lẻn vào lấy trộm 15 cái máy bơm nước, C và D điều khiển xe Dream biển số 70H4-2500 thay phiên nhau chở về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D chở máy bơm nước đem bán như lần trước và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 2.625.000 đồng.

- Lần thứ năm: không xác định rõ ngày tháng năm 2018, L rủ C đi lấy trộm máy bơm nước. C đồng ý, C rủ thêm Châu Tấn K và Tăng Minh P cùng tham gia, K, P cũng đồng ý. Tất cả cùng vào lấy trộm 15 cái máy bơm nước, C điều khiển xe Dream biển số 70H4-2500 chở về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đem bán như lần trước và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 2.100.000 đồng.

- Lần thứ sáu: không xác định rõ ngày tháng năm 2018, L, C, P và K, lấy trộm 15 cái máy bơm nước. Sau đó, C điều khiển xe Dream biển số 70H4-2500 chở về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đem bán như lần trước và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 2.100.000 đồng.

- Lần thứ bảy: không xác định rõ ngày tháng năm 2018, L rủ C, D đi lấy trộm máy bơm nước. C rủ K, P cùng tham gia, đến tiệm của ông H bằng 02 xe mô tô của D1, lấy trộm 15 cái máy bơm nước. C chở máy bơm nước về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đem bán như lần trước và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 1.750.000 đồng.

- Lần thứ tám: không xác định rõ ngày tháng năm 2018 (trước Tết Nguyên Đán năm 2018), L rủ N, C, D đi lấy trộm máy bơm nước. C rủ K cùng tham gia. K, N cùng D1 ở lại nhà của D1. D, C đến tiệm tạp hóa cùng L lấy trộm 15 cái máy bơm nước thay phiên nhau chở về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đem bán như lần trước và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 1.750.000 đồng.

- Lần thứ chín: không xác định rõ ngày tháng năm 2018, L rủ N, C, D đi lấy trộm máy bơm nước. Lần này lấy trộm được 20 cái máy bơm nước, C và D thay phiên nhau chở về nhà D1 cất giấu. Hôm sau, D1 chở máy bơm nước đem bán như lần trước và giao tiền cho L chia đều mỗi người số tiền 3.500.000 đồng.

- Lần thứ mười: vào đêm 14 rạng sáng 15 tháng 3 năm 2018, C chủ động rủ L đi trộm cắp máy bơm nước. L và C lấy trộm được 20 cái máy bơm nước, C chở về nhà D1 cất giấu. Sau đó, D1 chở máy bơm nước đến bán cho anh Phong, chưa nhận được tiền thì hành vi của L cùng đồng phạm bị phát hiện.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐG ngày 26 tháng 3 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành kết luận: 01 máy bơm nước bằng điện cùng loại, hiệu Bảo Long Jet-100, vỏ ngoài sơn màu xanh, công suất 0,75KW chưa qua sử dụng trị giá 900.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: có bảng thống kê kèm theo.Đã thu hồi và trả lại cho bị hại Dương Văn H 20 máy bơm nước hiệu BảoLong Jet-100, chưa qua sử dụng. Riêng số máy bơm nước mua từ D1 trước ngày 15 tháng 3 năm 2018 anh Phong đã bán lại cho người khác nên không thu hồi được.

Về bồi thường thiệt hại:

Gia đình Nguyễn Văn L đã bồi thường 8.000.000 đồng, gia đình Trần VănD1 đã bồi thường 5.000.000 đồng, gia đình Đặng Thành N đã bồi thường5.000.000 đồng, gia đình Trần Văn C đã bồi thường 4.000.000 đồng, gia đình Đào Trung D đã bồi thường 6.000.000 đồng, gia đình Tăng Minh P đã bồi thường 7.000.000 đồng, gia đình Châu Tấn K đã bồi thường số tiền 6.000.000 đồng. Tổng cộng đã bồi thường số tiền 41.000.000 đồng.

Ông H yêu cầu các bị cáo và Châu Tấn K có trách nhiệm liên đới bồi thường số tiền còn lại là 72.400.000 đồng. Bị cáo và gia đình cũng như Châu Tấn K đồng ý bồi thường.

Đối với Châu Tấn K đã cùng các bị cáo chiếm đoạt 60 cái máy bơm nước trị giá 54.000.000 đồng, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Thời điểm K thực hiện hành vi phạm tội được xác định là trước tết nguyên đán năm 2018 (trước ngày 15 tháng 02 năm 2018), K sinh ngày 03/3/2002 khi phạm tội chưa đủ 16 tuổi nên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 9 và khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã chuyển hồ sơ đến Công an xã B để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

Đối với anh Châu Hoài P, khi mua máy bơm nước của D1 anh P có hỏi rõ nguồn gốc máy bơm nước, D1 trả lời máy bơm nước do D1 mua từ khu vực chợ L, huyện H, tỉnh Tây Ninh. Giá mua bán gần sát giá thị trường và thời điểm mua bán là khoảng 10 giờ - 11 giờ sáng, bị cáo D1 không lén lút mang đến bán mà công khai với mọi người nên anh Phong không biết đây là tài sản do phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh P.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với như nội dung bản cáo trạng đã nêu và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKSCT ngày 05 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn L, Trần Văn D1, Trần Văn C, Đặng Thành N và Đào Trung D về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm a, c Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Tăng Minh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm a Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa , đại diện Viện kiểm sát nhân dân trong phần tranh luận vẫn giữ quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh trên, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dung Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2018.

- Áp dung Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần VănD1 từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2018.

- Áp dung Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g, o Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Thành N từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2018.

- Áp dung Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 54, 65, 91 và 101 Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án N dân tối cao xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48 tháng đến 60 tháng.

- Áp dung Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 54, 65, 91 và 101 Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị Quyết Số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án N dân tối cao xử phạt bị cáo Đào Trung D từ 18 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng đến 48 tháng.

- Áp dung Điểm a Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 54, 65, 91 và 101 Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị Quyết Số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩmphán Tòa án N dân tối cao xử phạt bị cáo Tăng Minh P từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng đến 36 tháng.

Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước gồm:

- 01 xe môt Wave Trung Quốc biển số 70B1-351.29 nhãn hiệu ROMANTIC, loại xe: hai bánh từ 50-175cm3 , số loại: 120, số khung bị đục xóa không xác định được nguyên thủy, số máy LC150FMG02096353 (đã qua sử dụng);

- 01 điện thoại di động hiệu Itel 1508 Plus, số IMEI: 351612082643161 (đã qua sử dụng);

- 01 điện thoại di động hiệu ZIP1.8-2, số IMEI: 846170030019268 (đã qua sử dụng);

Tịch thu tiêu hủy 01 thùng lôi tự chế.

Trả lại cho bị cáo Tăng Minh P 01 điện thoại di động hiệu OPPO A33w, sốIMEI: 860739033725179 (đã qua sử dụng).

Trả cho bà Trần Thị Đ 01 xe mô tô Dream biển số 70H4-2500 số máy1P50FMG-310365735, số khung LI3XOH301YAA10365735; 01 xe mô tô Wave biển số 70B1-511.92, số máy VTT46JL1P52FMH002145, số khung RRKWCH2UM8XP.

Trả cho chị Trần Thị Cẩm H 01 điện thoại di động hiệu Forme D9+, sốIMEI: 357803055717124.

Đối với xe mô tô Sangyang, màu xanh, số khung: không số, không biển số, số máy 008158 do không rõ nguồn gốc nên giao cho Công an huyện C, tỉnh Tây Ninh xử lý theo quy định pháp luật.

Về bồi thường thiệt hại: cần buộc các bị cáo và gia đình cùng Châu Tấn Kliên đới bồi thường cho ông H số tiền 72.400.000 đồng.

Người đại diện hợp pháp của các bị cáo, bị hại xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo C: Thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo ra đầu thú, phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình thiếu sự quan tâm của người thân, có ông nội có công với cách mạng, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt xử phạt bị cáo 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Về bồi thường thiệt hại cần xem xét cho bị cáo bồi thường tương xứng với hành vi phạm tội.

Người bào chữa cho bị cáo D và bị cáo P: Thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hai bị cáo có tác động gia đình bồi thường cho bị hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo ra đầu thú; không có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; nhận thức pháp luật còn hạn chế; gia đình có công với cách mạng, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt để áp dụng xử phạt bị cáo D 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, bị cáo P 12 tháng tù cho hưởng án treo. Về bồi thường thiệt hại cần xem xét cho 02 bị cáo bồi thường tương xứng với hành vi phạm tội.

Bị cáo P, bà Đ, chị H yêu cầu được nhận lại tài sản đang bị thu giữ.

Bà H không yêu cầu bị cáo N, bà Đ không yêu cầu bị cáo D1, anh E khôngyêu cầu bị cáo L trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sửa chữa sai lầm, làm công dân có ít cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2017 đến ngày 15 tháng 3 năm 2018, do cần tiền tiêu xài nhưng lười lao động, các bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông H. Các bị cáo có kế hoạch phạm tội chi tiết, rõ ràng, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội và cùng nhau liên kết lại thực hiện tội phạm. Phân công vai trò, phần việc của mỗi người là hình thức đồng phạm đặc biệt có sự cấu kết chặt chẽ giữ những người cùng thực hiện tội phạm nên xác định đây là trường hợp phạm tội có tổ chức. Xác định hành vi cụ thể của từng bị cáo như sau:

- Đối với bị cáo L và bị cáo D1: tham gia trộm 10 lần, lấy trộm 146 máy trị giá 131.400.000 đồng.

- C tham gia trộm 08 lần, lấy trộm 130 máy trị giá 117.000.000 đồng.

- D tham gia trộm 06 lần, lấy trộm 90 cái trị giá 81.000.000 đồng.

- N tham gia trộm 04 lần, lấy trộm 60 cái trị giá 54.000.000 đồng;

- P tham gia trộm 03 lần, lấy trộm 45 cái trị giá 40.500.000 đồng.

Do đó, có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Văn L, Trần Văn D1, Trần Văn C, Đặng Thành N và Đào Trung D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm a, c Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Tăng Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm a Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

 [3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo: bị cáo L với vai trò là người chủ mưu, cầm đầu việc thực hiện tội phạm, bị cáo đồng thời là người thựchành, trực tiếp thực hiện việc trộm cắp tài sản nên phải có mức án cao hơn các bị cáo khác. Bị cáo D1 tham gia trộm 1 lần, những lần khác là người chuẩn bị công cụ, phương tiện đi trộm cho các bị cáo khác, là người trực tiếp đi bán tài sản trộm được đem tiền về chia cho các bị cáo nên cần có mức án thấp hơn bị cáo L nhưng cao hơn các bị cáo khác. Bị cáo N, C, D, P đều với vai trò là người thực hành nhưng bị cáo C, D, P chưa đủ 18 tuổi nên đối với bị cáo N cần có mức án thấp hơn bị cáo D1 nhưng cao hơn các bị cáo còn lại. Riêng bị cáo P tham gia trộm ít nhất nên cần có mức án nhẹ hơn so với các bị cáo khác. Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ nên cần có mức án nghiêm để răn đe và phòng ngừa tội phạm. Riêng đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi cần xem xét mức án phù hợp chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ các bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo L, D1 và N: đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có tác động tích cực gia đình bồi thường thiệt hại; bị hại xin giảm nhẹ đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo N là người trên 18 tuổi, có hành vi xúi giục Trần Văn C, Đào Trung D là người dưới 18 tuổi phạm tội nên N phải chịu thêm tình tiết tăng nặng xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điểm o Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tại Bản án số 27/2018/HSPT ngày 14 tháng 3 năm 2018 của Tòa án N dân tỉnh Tây Ninh xử phạt Đặng Thành N 03 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ, đã chấp hành xong. Do N phạm tội “Trộm cắp tài sản” trước ngày xét xử phúc thẩm nên không xem xét áp dụng tình tiết tăng tặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo C, D, P: đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có tácđộng tích cực gia đình bồi thường thiệt hại; bị cáo C có ông nội ruột là thươngbinh, bị cáo D có ông ngoại ruột là thương binh, bị cáo P có ông cố là liệt sỹ; sau khi phạm tội các bị cáo đầu thú, bị hại xin giảm nhẹ đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo C, D, P có N thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1Điều 51 của Bộ luật Hình sự và có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà không thuộc những trường hợp không cho hưởng án treo quy định tại Điều 3 Nghị Quyết Số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án N dân tối cao nên xét thấy không cần thiết bắt các bị cáo C, D và P phải cách ly khỏi xã hội để chấp hành hình phạt tù mà cho hưởng án treo vẫn có khả năng tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

 [5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với các vật chứng dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội gồm:

- 01 xe môt Wave Trung Quốc biển số 70B1-351.29 nhãn hiệu ROMANTIC, loại xe: hai bánh từ 50-175cm3 , số loại: 120, số khung bị đục xóa không xác định được nguyên thủy, số máy LC150FMG02096353 (đã qua sử dụng);

- 01 điện thoại di động hiệu Itel 1508 Plus, số IMEI: 351612082643161 (đã qua sử dụng);

- 01 điện thoại di động hiệu ZIP1.8-2, số IMEI: 846170030019268 (đã qua sử dụng);

Tịch thu tiêu hủy 01 thùng lôi tự chế.

Bà Đ, chị H không biết các bị cáo sử dụng tài sản làm phương tiện, công cụ đi trộm cũng như bị cáo P không sử dụng điện thoại làm phương tiện thực hiện tội phạm nên cần trả lại cho chủ sở hữu đối với các tài sản sau:

- Trả lại cho bị cáo Tăng Minh P 01 điện thoại di động hiệu OPPO A33w, sốIMEI: 860739033725179 (đã qua sử dụng).

- Trả cho bà Trần Thị Đ 01 xe mô tô Dream biển số 70H4-2500 số máy1P50FMG-310365735, số khung LI3XOH301YAA10365735; 01 xe mô tô Wave biển số 70B1-511.92, số máy VTT46JL1P52FMH002145, số khung RRKWCH2UM8XP02145.

- Trả cho chị Trần Thị Cẩm H 01 điện thoại di động hiệu Forme D9+, sốIMEI: 357803055717124 (đã qua sử dụng).

Đối với xe mô tô Sangyang, màu xanh, số khung: không số, không biển số, số máy 008158 do không rõ nguồn gốc nên giao cho Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với xe mô tô Wave biển số 70F1-8562 của bà Đào Thị D: bị cáo D dùng để đi trộm nhưng bà D không biết sự việc. Bị cáo D sử dụng trái phép tài sản của bà D nên không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Quá trình điều tra không thu giữ tài sản và bà D vẫn đang quản lý xe mô tô trên.

 [6] Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận các bị cáo và gia đình đã bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 41.000.000 đồng. Bị có D1 trực tiếp đem tài sản trộm được đi bán, sau khi bán về bị cáo nói với các bị cáo khác giá bán thấp hơn để lấy phần chênh lệch nên cần xem xét trách nhiệm bồi thường của bị cáo D1 nhiều hơn các bị cáo khác. Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, 585, 586 và 587 Bộ luật dân sự 2015 buộc các bị cáo, Châu Tấn K và bị đơn dân sự có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông H. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể như sau:

- Bị cáo L có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 16.200.000 đồng.

- Bị cáo D1 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền31.200.000 đồng.

- Bị cáo N có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000đồng.

- Bị cáo C, ông Trần Thanh T và bà Nguyễn Thị O có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Bị cáo D, ông Đào Văn D và bà Đinh Thị Kim T có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Bị cáo P, ông Tăng Văn K và bà Nguyễn Thị S có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Châu Tấn K và ông Châu Văn S có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

Ghi nhận anh Phạm Hùng E không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn L trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại. Ghi nhận bà Nguyễn Thị H không yêu cầu bị cáo Đặng Thành N trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại. Ghi nhận bà Trần Thị Đ không yêu cầu bị cáo Trần Văn D1 trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại.

 [7] Về án phí:

Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điểm a, c Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Các bị cáo, Châu Tấn K và bị đơn dân sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a, c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn L, Trần Văn D1, Trần Văn C, ĐặngThành N, Đào Trung D và Tăng Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.Căn cứ vào Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 03 (ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2018.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51;Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn D13 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2018.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g, o Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Thành N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2018.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 65, 91 và 101 Bộ luật Hình xử phạt bị cáo Trần Văn C 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Văn C cho Ủy ban N dân xã Hòa Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 65, 91 và 101 Bộ luật Hình xử phạt bị cáo Đào Trung D 02 (Hai) năm 02 (Hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm 04 (Bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đào Trung D cho Ủy ban N dân xã Hòa Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 65, 91 và 101 Bộ luật Hình xử phạt bị cáo Tăng Minh P 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Tăng Minh P cho Ủy ban N dân xã Biên Giới, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng và bồi thường thiệt hại:

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với các vật chứng gồm:

- 01 xe môt Wave Trung Quốc biển số 70B1-351.29 nhãn hiệu ROMANTIC, loại xe: hai bánh từ 50-175cm3 , số loại: 120, số khung bị đục xóa không xác định được nguyên thủy, số máy LC150FMG02096353 (đã qua sử dụng);

- 01 điện thoại di động hiệu Itel 1508 Plus, số IMEI: 351612082643161 (đãqua sử dụng);

- 01 điện thoại di động hiệu ZIP1.8-2, số IMEI: 846170030019268 (đã qua sử dụng);Tịch thu tiêu hủy 01 thùng lôi tự chế.

Trả lại cho bị cáo Tăng Minh P 01 điện thoại di động hiệu OPPO A33w, số IMEI: 860739033725179 (đã qua sử dụng).Trả cho bà Trần Thị Đ 01 xe mô tô Dream biển số 70H4-2500 số máy1P50FMG-310365735, số khung LI3XOH301YAA10365735; 01 xe mô tô Wave biển số 70B1-511.92, số máy VTT46JL1P52FMH002145, số khung RRKWCH2UM8XP02145.

Trả cho chị Trần Thị Cẩm H 01 điện thoại di động hiệu Forme D9+, số IMEI: 357803055717124 (đã qua sử dụng).

Đối với xe mô tô Sangyang, màu xanh, số khung: không số, không biển số, số máy 008158 do không rõ nguồn gốc nên giao cho Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với xe mô tô Wave biển số 70F1-8562 của bà Đào Thị D không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Quá trình điều tra không thu giữ tài sản và bà D vẫn đang quản lý xe mô tô trên.

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận các bị cáo và gia đình đã bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 41.000.000 đồng. Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự, Điều584, 585, 586 và 587 Bộ luật dân sự 2015 buộc các bị cáo và Châu Tấn K có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông H. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể như sau:

- Bị cáo L có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 16.200.000 đồng.

- Bị cáo D1 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền31.200.000 đồng.

- Bị cáo N có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Bị cáo C, ông Trần Thanh T và bà Nguyễn Thị O có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Bị cáo D, ông Đào Văn D và bà Đinh Thị Kim T có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Bị cáo P, ông Tăng Văn K và bà Nguyễn Thị S có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

- Châu Tấn K và ông Châu Văn S có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông H số tiền 5.000.000 đồng.

Ghi nhận anh Phạm Hùng E không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn L trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại. Ghi nhận bà Nguyễn Thị H không yêu cầu bị cáo Đặng Thành N trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại. Ghi nhận bà Trần Thị Đ không yêu cầu bị cáo Trần Văn D1 trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại.

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điểm a, c Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Bị cáo L, D1, N, C, D và P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 810.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn D1 phải chịu 1.560.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo Đặng Thành N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Văn C, ông Trần Thanh T và bà Nguyễn Thị O phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Đào Trung D, ông Đào Văn D và bà Đinh Thị Kim T phải chịu300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Tăng Minh P, ông Tăng Văn K và bà Nguyễn Thị S phải chịu300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Châu Tấn K và ông Châu Văn S phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Bị cáo, bị hại, đương sự, người bào chữa cho bị cáo dưới 18 tuổi được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân dự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2018/HS-ST ngày 04/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:54/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về