TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 54/2018/HS-PT NGÀY 16/11/2018 VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 107 /2018/TLPT-HS ngày 16 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo Lê Công H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 24/2018/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Chư P, tỉnh Gia Lai.
Bị cáo có kháng cáo:
Lê Công H (Tên gọi khác: H Bảy) sinh năm 1979, tại Phù Cát, Bình Định. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Số 155 Lê Văn H, tổ 15, phường Yên Th, thành phố Pl, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Đạo Cao Đài; Con ông Lê Công B (đã chết) và bà Lê Thị Th, sinh năm: 1952; bị cáo có vợ Trương Thị Th, sinh năm: 1983 và có hai người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2008. Nhân thân: tốt; Tiền án, tiền sự: Không;Tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2017 đến ngày 13/02/2018 được thay thế bằng biện pháp Bão lĩnh. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Qua tìm hiểu bị cáo Lê Công H biết được tại khu vực tiểu khu 221, 225, 227 trên địa phận xã Ia Kr, huyện Chư P, tỉnh Gia Lai có nhiều cây gỗ có thể khai thác được nên bị cáo đã lần lượt liên hệ và thỏa thuận với Đinh Văn T, Trương Văn V, Lê Công Th lên rừng khai thác gỗ bán lại cho H. Sau đó Đinh Văn T huy động thêm Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn H, Nguyễn Tiến Th, Nguyễn Trọng D, Nguyễn Văn Ch, Nguyễn Văn V, Tô Viết Ng; Trương Văn V đã huy động thêm Luyện Văn N, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Danh T; Lê Công Th huy động thêm Lê Công Th, Lê Công C, Lê Công L, Đỗ Văn T lên các tiểu khu 221, 225, 227 thuộc lâm phần do Ban quản lý rừng phòng hộ Ia L quản lý nằm trên địa phận xã Ia Kr, huyện Chư P, tỉnh Gia Lai khai thác gỗ trái phép về bán lại cho H. Trong thời gian từ ngày 21/11/2017 đến ngày 26/11/2017 các đối tượng trên đã khai thác tổng số gỗ là 43 cây (trong đó 41 cây thuộc rừng sản xuất và 02 cây thuộc rừng phòng hộ), có khối lượng là 38,842m3
2. Giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:
Tại bản án hình sơ sơ thẩm số 24/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Chư P, tỉnh Gia Lai đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Công H phạm tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”
Căn cứ khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự 1999; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên phạt bị cáo Lê Công H 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2017 đến ngày 13/02/2018.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, nghĩa vụ bồi thường dân sự, nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của bị cáo theo luật định.
3. Kháng cáo của bị cáo
Ngày 25/9/2018 bị cáo có đơn kháng cáo xin được hưởng hình phạt tiền, giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
4. Diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt, rút kháng cáo về việc xin được phạt tiền và xin được hưởng án treo. Kèm theo kháng cáo bị cáo cung cấp giấy nộp toàn bộ tiền bồi thường theo bản án sơ thẩm, nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm. Lời nói sau cùng bị cáo cho rằng đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm cho bị cáo từ 4 đến 6 tháng tù. Các yêu cầu khác đã rút kháng cáo nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội: tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Công H khai nhận: Đầu tháng 11/2017 bị cáo biết được tại khu vực tiểu khu 221, 225, 227 trên địa phận xã Ia Kr, huyện Chư P, tỉnh Gia Lai có nhiều cây gỗ có thể khai thác được nên trong khoảng thời gian từ ngày 21/11/2017 đến ngày 26/11/2017 bị cáo đã thuê một số người khai thác tổng số gỗ là 43 cây (trong đó 41 cây thuộc rừng sản xuất và 02 cây thuộc rừng phòng hộ), có khối lượng là 38,842m3. Do đó tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội.
[2] Về hình phạt: Xét tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về hình phạt như sau “...phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. Như vậy hành vi của bị cáo có thể bị xử phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù. Xét trong vụ án này, bản thân bị cáo nhận thức rõ được hành vi khai thác cây gỗ trái phép trên rừng thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thuê người đi khái thác trái phép. Với thực trạng trong nhiều năm trở lại đây việc rừng bị khai thác bừa bãi đã trở thành vấn nạn, bị xã hội lên án, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống xã hội, pháp luật hình sự của nhà nước ta xử lý cá nhân, tổ chức trong việc khai thác cây gỗ trái phép ngày càng nghiêm khắc hơn. Do đó, cần thiết xử bị cáo hình phạt tù mới tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra và để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo đã nhận thức được điều này nên rút kháng cáo xin phạt tiền và xin hưởng án treo. Việc rút kháng cáo là tự nguyện nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét kháng cáo yêu cầu này.
Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấy rằng: Bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp 10.000.000đ tiền bồi thường thiệt hại nên được tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nêu trên, sau khi cấp sơ thẩm xử bị cáo đã nộp toàn bộ tiền bồi thường thiệt hại theo bản án sơ thẩm và nộp các khoản án phí do bản án sơ thẩm tuyên để chứng minh việc bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật, tự nguyện khắc phục sữa chữa sai lầm. Việc này, được Hội đồng xét xử phúc thẩm coi là tình tiết mới phát sinh tại giai đoạn phúc thẩm để sửa án sơ thẩm theo hướng giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội đã nhận thức hành vi vi phạm, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại.
[3] Về tiền bồi thường: Tiếp tục tạm giữ số tiền bồi thường và tiền án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm do bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư P, tỉnh Gia Lai là 23.712.300đ theo biên lai thu tiền số 0001987 ngày 14/11/2018 để thi hành án đối với các khoản phải thi hành án của bị cáo theo bản án sơ thẩm số 24/2018/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Chư P, tỉnh Gia Lai
Do án sơ thẩm bị sửa nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015,
1. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 24/2018/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Chư P, tỉnh Gia Lai về phần hình phạt.
Tuyên bố bị cáo Lê Công H phạm tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”
Áp dụng khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự 1999; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên phạt bị cáo Lê Công H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2017 đến ngày 13/02/2018.
Tiếp tục tạm giữ số tiền bồi thường và tiền án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm do bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư P, tỉnh Gia Lai là 23.712.300đ theo biên lai thu tiền số 0001987 ngày 14/11/2018 để thi hành án đối với các khoản phải thi hành án của bị cáo theo bản án sơ thẩm số 24/2018/HS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Chư P, tỉnh Gia Lai
2. Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Công H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ./.
Bản án 54/2018/HS-PT ngày 16/11/2018 về tội vi phạm các quy định khai thác và bảo vệ rừng
Số hiệu: | 54/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về