Bản án 54/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 54/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 327/2018/HNGĐ-ST ngày 29/6/2018 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31-10-2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11 /2018/QĐ-HPT ngày 15-11-2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Kim V, sinh năm: 1994 (Có mặt).

Địa chỉ: Số 24/21, Kp P, phường C, thị xã A, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Anh Đinh Đức P, sinh năm: 1988 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 2, xã N, huyện R, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim V trình bày:

Chị Đỗ Thị Kim V và anh Đinh Đức P tự nguyện sống chung và năm 2013 thì đăng ký kết hôn với nhau chính quyền địa phương theo quy định. Trong quá trình chung sống hai bên xảy ra nhiều mâu thuẫn, do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau. Do vậy, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân, không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Nay, chị V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đinh Đức P.

Về việc nuôi con: Trong quá trình chung sống anh chị có 02 người con chung là cháu: Đinh Kim S, sinh ngày: 01/8/2005 và Đinh Thị Kim N, sinh ngày: 02/8/2017, từ khi hai người sống ly thân cho đến nay chị V là người trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn, chị V yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đinh Đức P trình bày: Anh Đinh Đức P thống nhất thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim V về thời thời chung sống, đăng ký kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay, chị V yêu cầu được ly hôn thì anh P cũng đồng ý ly hôn với chị V.

Về việc nuôi con: Anh chị có hai người con chung như trình bày của chị V là đúng. Sau khi vợ chồng ly hôn anh P yêu cầu được nuôi con, chị V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện iểm sát nhân dân huyện Phú Riềng:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc chấp hành các quy định pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Về hướng giải quyết vụ án: Chị Đỗ Thị Kim V và anh Đinh Đức P tự nguyện sống chung với nhau và năm 2013, có đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương theo quy định, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị V kiên quyết xin được ly hôn, anh P cũng đồng ý ly hôn là sự tự nguyện của anh chị, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về con chung: Do cháu Đinh Kim S, sinh ngày: 01/8/2005 và Đinh Thị Kim N, sinh ngày: 02/8/2017còn nhỏ và hiện đang sống ổn định với chị V. Do đó, cần giao con cho chị V nuôi dưỡng, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.

Về tài sản: Các bên không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đây là vụ án dân sự về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, bị đơn anh Đinh Đức P hiện cư trú tại thôn 2, xã N, huyện R, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Đinh Đức P mặc dù đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh P đã trình bày ý kiến, quan điểm của mình và việc vắng mặt của anh không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim V cho rằng, trong thời gian chung sống giữa nguyên đơn và bị đơn thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, đời sống chung vợ chồng không được hạnh phúc, anh P không quan tâm, chăm sóc gia đình. Xét thấy, chị V và anh P sống chung với nhau từ năm 2013, việc sống chung hoàn toàn tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương theo quy định, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã kiên trì hòa giải đoàn tụ nhưng không thành và sau khi tòa án tiến hành hòa giải anh chị đều có nguyện vọng được ly hôn với nhau. Việc anh chị đều mong muốn ly hôn là sự tự nguyện, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Về việc nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án chị V và anh P đều có yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ khi anh chị sống ly thân các cháu sống với chị V và thực tế chị vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng được các cháu; mặt khác, hiện cháu S và N đang còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ và sự ổn định của các cháu. Do đó, cần giao con chung là các cháu: Đinh Kim S và Đinh Thị Kim N cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con là phù hợp.

[4] Về tài sản và nợ chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị Kim V phải nộp theo quy định của pháp luật.

V các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; các điều 56, 57, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim V về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của chị Đỗ Thị Kim V với anh Đinh Đức P.

2/ Về việc nuôi con: Giao cho chị Đỗ Thị Kim V trực tiếp nuôi con chung là các cháu: Đinh Kim S, sinh ngày: 01/8/2005 và Đinh Thị Kim N, sinh ngày: 02/8/2017. Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

Vì lợi ích mọi mặt của con, anh P, chị V có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị Kim V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đó theo biên lai thu tiền số 026505 ngày 29/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. Chị V đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim V có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đối với bị đơn anh Đinh Đức P vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về