TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 54/2018/DS-PT NGÀY 31/08/2018 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Ngày 31 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 67/2018/TLPT- DS, ngày 30 tháng 7 năm 2018, về việc Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 36/2018/DS-ST ngày 14 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện P M bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 256/2018/QĐXXPT-DS ngày 07 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị L1; Cư trú tại: Thôn T T 2, xã M Q, huyện P M, tỉnh Bình Định (có mặt).
Người đại diện hợp pháp của bà Đỗ Thị L1: Ông Lê Văn Đ; Cư trú tại: Thôn T T 2, xã M Q, huyện P M, tỉnh Bình Định (văn bản ủy quyền ngày 29/12/2017).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Quang K – Văn phòng luật sư Q K – Đoàn luật sư Bình Định.
- Bị đơn:
1) Bà Đỗ Thị L2
Người đại diện hợp pháp của bà Đỗ Thị L2: Ông Thái Đồng H (chồng bà L2; ông H cũng là bị đơn trong vụ án)
2) Ông Thái Đồng H
3) Anh Thái Chí T
Đều cư trú tại: Thôn T T 2, xã M Q, huyện P M, tỉnh Bình Định.
4) Chị Thái Thị Kim O; Cư trú tại: Thôn B T T, xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định.
- Người kháng cáo: Bà Đỗ Thị L1 - Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Đỗ Thị L1 trình bày:
Ngày 08 tháng 5 năm 2015 bà đi làm tại đồng R T thuộc thôn T T 2, xã M Q thì gặp anh Thái Chí T con bà Đỗ Thị L2 (bà L2 là chị ruột của bà). Do anh T không cho bà thả vòi nước trên bờ ruộng nhà anh T nên hai bên xảy ra cãi vã. Anh T dùng chân đạp bà ngã xuống ruộng. Lúc đó, bà L2 và ông H (chồng bà L2), chị O (con bà L2) nghe thấy liền chạy đến chỗ bà và anh T đang cãi nhau. Bà L2 dùng câu liêm chém vào ngón tay bà và dùng nẹp tre cắm ớt đánh vào đầu bà; chị O dùng nẹp tre đánh nhiều cái vào đầu bà; ông H dùng cuốc đánh vào cổ bà làm bà ngã xuống ruộng. Sau đó, bà được gia đình đưa đi cấp cứu và điều trị tại Trung tâm y tế huyện P M từ ngày 08.5.2015 đến ngày15.5.2015 chuyển lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định điều trị đến ngày 22.5.2015.
Do bệnh tái phát nên bà đến khám và mua thuốc tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định 02 lần. Nay bà yêu cầu bà L2, ông H, chị O và anh T phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà với số tiền 58.719.000 đồng.
Bị đơn bà Đỗ Thị L2 trình bày:
Khoảng 15 giờ ngày 08.5.2015, bà cùng chồng là ông Thái Đồng H đi cắt cỏ cho bò tại đám ớt của gia đình thuộc đồng R T thì thấy bà L1 máy nước ruộng ở gần đó. Đến 16 giờ cùng ngày, con trai của bà là Thái Chí T đến vác cỏ để chở về nhà. Lúc này giữa bà L1 và anh T xảy ra cãi vã do anh T không cho bà L1 thả vòi nước trên bờ ruộng nhà mình. Khi anh T vác bao cỏ đi thì bà L1 dùng cuốc đánh vào lưng của T nhưng chỉ trúng vào bao cỏ. Bà thấy vậy nên chạy đến can, không cho anh T đánh bà L1 thì bị bà L1 dùng cuốc đánh vào mặt làm bà bị chảy máu ở môi và bầm tay. Bà liền rút cây nẹp tre cắm ớt đánh bà L1 một cái.
Bà bị bà L1 đánh nên phải điều trị tại Trung tâm y tế huyện P M từ ngày 08.5.2015 đến ngày16.5.2015. Vì vậy, bà yêu cầu bà L1 phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà số tiền 8.334.950 đồng. Nếu bà L1 không bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà thì bà cũng không chấp nhận bồi thường cho bà L1.
Bị đơn ông Thái Đồng H trình bày:
Ông là chồng bà Đỗ Thị L2. Ngày 08.5.2015 vợ chồng ông đi cắt cỏ tại đám ớt của gia đình thuộc đồng R T. Con ông là Thái Chí T đến vác cỏ thì gặp bà L1. Hai bên xảy ra cãi nhau, bà L1 dùng cuốc đánh trúng vào bao cỏ mà T đang vác. Lúc đó, bà L2 đến can T, không cho đánh nhau với bà L1 thì bị bà L1 dùng cuốc đánh trúng vào miệng chảy máu nên bà L2 rút nẹp tre cắm ớt đánh bà L1. Ông không đánh bà L1 nên không đồng ý bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà L1.
Bị đơn chị Thái Thị Kim O trình bày:
Sự việc xảy ra vào chiều ngày 08.5.2015 tại đồng R T giữa bà L1 với bà L2(mẹ chị), chị không biết vì hôm đó chị ở nhà giữ con nhỏ. Đến 17 giờ cùng ngày, chị nghe điện thoại của em trai là T nói mẹ bị đánh nên chị gửi con rồi về nhà mẹ nhưng không thấy. Chị chạy ra đồng thì thấy mẹ bị chảy máu ở miệng, tay bị bầm. Thấy chị nên mẹ chị bảo bà bị bà L1 đánh. Ngay lúc đó, chị bảo em T chở mẹ đi bệnh viện. Chị không đánh bà L1 nên không chấp nhận bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà L1.
Bị đơn anh Thái Chí T trình bày:
Khoảng 16 giờ ngày 08.5.2015, anh đi vác cỏ tại đồng R T thì gặp bà bốn Tr ở cùng thôn. Anh hỏi bà bốn Tr sao không máy nước thì bà bốn Tr trả lời chờ bà L1 máy xong. Bà L1 nghe hai người nói chuyện nên bà L1 nói với bà Tr: “ Con thằng H mà cái thá gì mà mét với nó”. Sau đó giữa anh và bà L1 xảy ra cãi vã. Bà L2 (mẹ anh) đến can và bảo anh vác cỏ về. Lúc anh vác bao cỏ đến gần chỗ bà L1 thì bị bà L1 lấy cuốc đánh vào sau lưng nhưng trúng vào bao cỏ. Mẹ anh bảo anh về không cho anh đánh bà L1 nên anh vác bao cỏ đi về. Anh không đánh bà L1 nên không chấp nhận bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà L1.
Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2018/DS-ST ngày 14.6.2018 của Tòa án nhân dân huyện P M đã xử:
- Buộc bà Đỗ Thị L2 và chị Thái Thị Kim O liên đới bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà Đỗ Thị L1 với số tiền 18.084.225 đồng. Chia phần: Bà L2 phải bồi thường cho bà L1 9.042.112 đồng, chị O phải bồi thường cho bà L1 9.042.112 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu của bà L1 đòi ông Thái Đồng H và anh Thái Chí T bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà.
- Buộc bà L1 bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà L2 số tiền: 5.464.950 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 25.6.2018 nguyên đơn bà Đỗ Thị L1 kháng cáo yêu cầu bà Đỗ Thị L2, ông Thái Đồng H, chị Thái Thị Kim O và anh Thái Chí T phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà số tiền 58.719.000 đồng; không chấp nhận quyết định của bản án sơ thẩm buộc bà phải bồi thường cho bà L2 5.464.950 đồng.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị: Bác kháng cáo của bà Đỗ Thị L1; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Khoảng 16 giờ ngày 08.5.2015, tại đồng R T thuộc thôn T T 2, xã M Q, huyện P M, tỉnh Bình Định xảy ra vụ xô xát, đánh nhau giữa bà Đỗ Thị L1 với bà Đỗ Thị L2 và chị Thái Thị Kim O. Hậu quả bà Đỗ Thị L1 và bà Đỗ Thị L2 đều bị thương tích phải điều trị tại bệnh viện. Theo bà L1, bà bị bà L2, ông Thái Đồng H, chị Thái Thị Kim O và anh Thái Chí T đánh, cụ thể: anh T dùng chân đạp bà ngã xuống ruộng, bà L2 dùng câu liêm chém vào ngón tay bà và dùng nẹp tre cắm ớt đánh vào đầu bà; chị O dùng nẹp tre đánh nhiều cái vào đầu bà; ông H dùng cuốc đánh vào cổ bà làm bà ngã xuống ruộng nên bà yêu cầu bà L2, ông H, chị O và anh T phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà. Bà L2 và chị O không thừa nhận việc đánh bà L1 nhưng lời khai của người làm chứng là chị Đặng Thị Tuyết L và anh Lê Đỗ Đức Th (con bà L1) đều xác nhận rằng bà L2 và chị O cầm cây nẹp tre cắm ớt chạy tới chỗ bà L1 đánh nhiều cái vào đầu và vào người bà L1, bà L1 cũng dùng nẹp tre cắm ớt đánh bà L2 nên có đủ căn cứ để khẳng định rằng thương tích của bà L1 là do bà L1 và chị O gây ra còn thương tích của bà L2 là do bà L1 gây ra nên bà L2 và chị O phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà L1; Bà L1 phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà L2 như bản án sơ thẩm đã quyết định là có căn cứ, đúng pháp luật vì vậy kháng cáo của bà L1 không đồng ý bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà L2 không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[2] Bà L1 cho rằng ông Thái Đồng H (chồng bà L2) và anh Thái Chí T (con bà Liệu) cũng tham gia đánh bà, cụ thể: ông H dùng lưỡi cuốc đánh vào vùng cổ của bà còn anh T đạp bà ngã xuống ruộng nhưng ông H và anh T không thừa nhận. Lời khai của người làm chứng là chị Đặng Thị Tuyết L tại biên bản ghi lời khai ngày 22/5/2016 khai rằng: “Ông H giơ cuốc định đánh bà L thì thằng Th la lên không cho đánh. Ông H không đánh bà L1 mà bỏ cuốc tại bờ ruộng nơi T đang đứng”; Lời khai của anh Th cũng xác nhận ông H không dùng cuốc đánh bà L2, lời khai của chị Đặng Thị Tuyết L khẳng định không thấy anh T đánh bà L1. Mặt khác, theo các chứng từ điều trị tại Trung tâm y tế huyện P M và tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định thì bà L1 không có vết thương ở vùng cổ nên không có căn cứ cho rằng ông H và anh T có tham gia đánh bà L1. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà L2 và chị O phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà L1 là có căn cứ nên việc bà L1 kháng cáo yêu cầu ông H và anh T phải có trách nhiệm cùng với bà L2 và chị O bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà L2, chị O liên đới bồi thường cho bà L1 18.084.225 đồng bao gồm các chi phí như:
Tiền thuốc và tiền xe đi cấp cứu: 4.604.225 đồng;
Chi phí mất thu nhập cho người bệnh và người nuôi trong thời gian 15 ngày x 180.000 đồng/ngày/người x 2 người = 5.400.000 đồng;
Chi phí tiền xe và chi phí mất thu nhập 01 ngày đi giám định: 280.000 đồng; Tổn thất tinh thần: Được tính 06 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định là: 06 lần x 1.300.000 đồng = 7.800.000 đồng.
Xét thấy, các khoản tiền thuốc và tiền xe đi cấp cứu, thu nhập bị mất của người bệnh và người chăm sóc, tiền xe và chi phí bị mất thu nhập 01 ngày đi giám định và tổn thất tinh thần mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét buộc bà L2, chị O phải bồi thường cho bà L1 là chi phí hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L1 yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận các chi phí sau khi ra viện bà L1 tiếp tục đi tái khám vào ngày 08/6/2015, ngày 10/11/2015, ngày 29/12/2015 với số tiền 2.797.000 đồng. Xét yêu cầu này của bà L1, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi được xuất viện, bà L1 tự đi khám bệnh và tự mua thuốc không có đơn của bác sĩ. Mặt khác, các hóa đơn mà bà L1 xuất trình đề ngày 08/6/2015, ngày 10/11/2015, ngày 29/12/2015 nhưng tại phiên tòa ông Đ (chồng bà L1) chứng minh bằng 03 “Phiếu thu tiền thuốc” đề ngày 08/6/2015, ngày 10/11/2015 và cho rằng bà L1 mua thuốc theo các “Phiếu thu tiền thuốc” nêu trên là không phù hợp. Vì vậy, kháng cáo của bà L1 yêu cầu bà L2, chị O, ông H và anh T phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà 58.719.000 đồng không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của bà L1 không được chấp nhận lẽ ra bà L1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nhưng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội bà L1 được miễn nộp.
[5] Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà L1 phát biểu quan điểm pháp lý đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà L1; sửa bản án sơ thẩm tăng mức bồi thường, cụ thể đề nghị Tòa chấp nhận khoản tiền thuốc và các chi phí khác với số tiền 2.797.000 đồng (có hóa đơn) vào ngày 08/6/2015 và tăng mức bồi thường tổn thất tinh thần lên 10 tháng lương cơ sở. Việc đề nghị của luật sư là không phù hợp với nhận định của Tòa án nên không được chấp nhận.
[6] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị L1; giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 584, 587 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị L1; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Buộc bà Đỗ Thị L2 và chị Thái Thị Kim O phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Đỗ Thị L1 với số tiền18.084.225 đồng (mười tám triệu không trăm tám mươi bốn ngàn hai trăm hai mươi lăm đồng). Chia phần cụ thể như sau: Bà Đỗ Thị L2 bồi thường 9.042.113 đồng; chị Thái Thị Kim O bồi thường 9.042.112 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị L1 đòi ông Thái Đồng H và anh Thái Chí T bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bà.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Đỗ Thị L1 được miễn nộp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không giải quyết có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 54/2018/DS-PT ngày 31/08/2018 về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 54/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về