Bản án 537/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 537/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 511/2020/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 539/2020/QĐXXST-HS ngày 14/12/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 217/2020/HSST- QĐ ngày 25/12/2020 đối với các bị cáo:

1.Nguyễn Văn T, sinh năm 1989 tại tỉnh Cà Mau; thường trú: Ấp D, xã G, huyện C, tỉnh Cà Mau; tạm trú: 22/38 tổ 72, khu 8, phường L, Thành phố M, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ hồ ; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1967 và con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1970; bị cáo có 03 anh, em, bị cáo là thứ 2; tiền sự, tiền án: Không có Nhân thân: Ngày 27/12/2014, Công an phường Bình Thắng, thị xã Dĩ An (nay là Thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 750.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng, theo quyết định số 20. Ngày 12/01/2015 chấp hành xong việc nộp phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 13/10/2020, có mặt.

2. Bùi Văn U, sinh năm 1988 tại tỉnh Cà Mau; thường trú: Ấp H, xã P, huyện D, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Bùi Văn T, sinh năm 1962 và con bà Trần Thị T, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Bạch Thị T, sinh năm 1989 và có 03 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016; tiền sự, tiền án: Không có Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 13/10/2020, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Y, sinh năm 1962; thường trú: Ấp T xã T, huyện D, tỉnh Cà Mau, vắng mặt Người chứng kiến: Anh Dương Thanh T, sinh năm 1988, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 12/10/2020, bị cáo Nguyễn Văn T rủ bị cáo Bùi Văn U góp tiền mua ma túy về sử dụng, mỗi người bỏ ra 600.000 đồng để mua, T bỏ 1.200.000 đồng ra mua trước, U trả tiền sau. Sau đó U điều khiển xe mô tô biển số 69F1-152.17 chở T, cả hai điều khiển xe đến đường Nguyễn Xiển thuộc phường Long Bình, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, U dừng xe ở ngoài đường đợi còn T đi bộ vào hẻm gặp một người đàn ông tên K không rõ lai lịch hỏi mua 700.000 đồng ma túy đá gồm 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu 02 gói ma túy vào trong ống quần bên trái rồi đi ra chỗ U đứng. T nói với U là chỉ mua được 700.000 đồng ma túy. Sau đó, U điều khiển xe mô tô chở T về nhà trọ ở thành phố Thủ Dầu Một để sử dụng ma túy. Trên đường đi, T lấy 01 túi nilon miệng kéo dính bên trong có 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng cầm trên tay để xem nhiều hay ít. Khi đến đoạn đường Mỹ Phước – Tân Vạn thuộc tổ 4, khu phố Châu Thới, phường Bình An, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp Công an phường Bình An phối hợp với Đội cảnh sát kinh tế - ma túy Công an Thành phố Dĩ An đang tuần tra yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện T ngồi phía sau xe trên tay có cầm 01 túi nilon miệng kéo dính bên trong có 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, trong ống quần bên trái có 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. T và U khai nhận là ma túy đá vừa mua về để sử dụng. Sau đó bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và U vào lúc 4 giờ 15 phút ngày 13/10/2020.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nylon miệng kéo bên trong có 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. 01 xe môtô nhãn hiệu Wave màu xanh biển số 69F1-15217, số máy HC12E5108120, số khung RLHHC1219DY107951.

Kết luận giám định số 650/MT-PC09 ngày 21/10/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể màu trắng chứa trong gói nilon hàn kín và túi nilon miệng kéo dính gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng M1= 0,1668 gam, M2= 0,9121 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng đã xử lý : Xe môtô hiệu Wave màu xanh biển số 69F1- 15217, số máy HC12E5108120, số khung RLHHC1219DY107951 chủ sở hữu bà Trần Thị Y là dì ruột bị cáo U. U dùng xe để đi mua ma túy bà Y không biết, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho bà Y.

Đối với người tên Khỏe bán ma túy cho Nguyễn Văn T do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Cáo trạng số 548/CT – VKS ngày 24 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T, Bùi Văn U về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T, U mỗi bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy thu giữ còn lại sau giám định.

Bị cáo T, U không tranh luận, bào chữa. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo nói lời sau cùng: Xin xem xét giảm nhẹ mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Nguyễn Văn T, Bùi Văn U: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang ngày 13/10/2020, kết luận giám định ma túy, lời khai bị cáo T, U thể hiện ngày 12/10/2020 các bị cáo bàn việc mua ma túy sử dụng, sau đó cả hai đi mua ma túy trên đường về bị bắt giữ, ma túy thu giữ của T, U có khối lượng 1,0789 gam Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo T, U đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 548/CT-VKS ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T, U không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T, U không có tiền án, tiền sự, các bị cáo có nghề nghiệp ổn định. Bị cáo T năm 2014 bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 5 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn do không có sự bàn bạc, phân công nhau thực hiện tội phạm. Các bị cáo tham gia với vai trò người thực hành, bị cáo T có nhân thân xấu, do vậy mức hình phạt của T cao hơn so với U.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Trong vụ án còn liên quan đến người đàn ông không rõ nhân thân bán ma túy cho T, U. Công an Thành phố Dĩ An tách điều tra xử lý sau là phù hợp.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt đối với bị cáo T phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử được chấp nhận. Riêng mức hình phạt đối với bị cáo U có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần mức án đối với bị cáo U thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[7] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T, U phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T, Bùi Văn U phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

1.2 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn U 01 (một) năm 04 (tháng) tù Thời hạn tù đối với bị cáo T, U tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam 13/10/2020.

2. Các biện pháp tư pháp:

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã được niêm phong bên trong chứa M1 = 0,1409 gam; M2 = 0,8537 gam ma túy Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/11/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Các bị cáo Nguyễn Văn T, Bùi Văn U mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 537/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:537/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về