TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 53/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2023/TLST - HS ngày 14 tháng 9 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2023/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo.
Họ và tên: Lò Văn D, tên gọi khác: Không; sinh ngày 21/12/1992 tại xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái đoàn thể: Không; Con ông: Lò Văn Q, sinh năm 1963 và bà Tòng Thị H, sinh năm 1967. Bị cáo có vợ là Cà Thị H, sinh năm 1999 (Đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 2015.
Tiền án: Không;
Tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự. Ngày 10/9/2019 bị cáo bị TAND huyện Q, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, ngày 10/9/2021 bị cáo chấp hành xong thời gian cai nghiện, tiền sự nêu trên của bị cáo tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội chưa được xoá theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2020.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn D: Bà Trần Bích L – Luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn H, sinh năm 1989. Trú quán: Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 24/6/2023 Lò Văn D, sinh năm 1992, một mình điều khiển xe máy BKS: 26B1-xxxxx từ nhà tại bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La về hướng trung tâm huyện Q để tìm mua ma tuý về sử dụng. Khi đến khu vực đường thuộc xã C (cụ thể là bản gì D không biết), huyện Q, D gặp và hỏi mua được của một người đàn ông không quen biết đang ngồi ở cạnh đường 01 (một) gói ma tuý được gói sẵn bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng, có được ma tuý D điều khiển xe máy về hướng xã C, trên đường đi D vào bụi cây ven đường, trích một phần nhỏ ma tuý trong gói mua được ra sử dụng bằng hình thức chích, phần ma tuý còn lại D gói lại như cũ, sau đó dùng mảnh nilon là vỏ của túi đựng bơm kim tiêm vừa sử dụng để chích ma tuý gói lại và cất giấu trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi tiếp tục điều khiển xe máy quay về nhà, trên đường về tại khu vực bản H, xã C, D bị tổ công tác của Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ: Chất cục bột màu trắng nghi là ma tuý được gói bằng 01 (một) lớp giấy bạc màu vàng bên ngoài được bọc bằng 01 (một) lớp nilon (loại vỏ đựng bơm kim tiêm sử dụng một lần) cùng một số vật chứng khác liên quan đến hành vi phạm tội.
Tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Lò Văn D, kết quả: Lò Văn D dương tính với chất ma túy, nhóm MOP. Ngày 24/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định đối với chất cục bột màu trắng thu giữ của Lò Văn D được 0,14 gam (Không phẩy mười bốn gam), lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu A1.
Tại Kết luận giám định số 1619/KL-KTHS ngày 27/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: “Mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy; Loại Heroine; Tổng khối lượng chất thu giữ là 0,14 gam”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Bản cáo trạng số: 38/CT-VKS-QN ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Lò Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Q phát biểu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn D về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự - Xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 16 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 24/6/2023) Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX tuyên tiêu huỷ:
- 01 phong bì công văn của Công an huyện Q được niêm phong, dán kín. Mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn D – Tàng trữ trái phép chất ma tuý gồm: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng + 01 (một) mảnh nilon (loại vỏ đựng bơm kim tiêm sử dụng một lần) + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau tại mép dán giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 098726 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên của bị can Lò Văn D cùng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q, tỉnh Sơn La.
Về án phí: Bị cáo Lò Văn D là người dân tộc, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị HĐXX căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Quan điểm bào chữa của luật sư Trần Bích L đối với bị cáo Lò Văn D, tại phiên tòa cũng như giai đoạn điều tra, truy tố, bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng xác định được các tình tiết của vụ án. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã tiếp tục thể hiện sự thành khẩn khai báo của bản thân và thể hiện rõ thái độ ăn năn hối cải. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS để ra một bản án phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo, đồng thời thể hiện tính nhân văn của pháp luật nước ta đối với người đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực giúp cơ quan điều tra tội phạm, nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt là từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Do bị cáo sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử không xử phạt hình phạt bổ sung (phạt tiền) và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 của Quốc hội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Lò Văn H trình bày và đề nghị: Anh là anh trai ruột của Lò Văn D. Ngày 24/6/2023 D mượn xe của anh, anh nhất trí cho mượn xe cùng giấy tờ xe, sau đó Lò Văn D đã dùng vào việc đi tìm mua ma tuý, anh không biết. Ngày 19/7/2023 anh có đơn xin được nhận lại chiếc xe để phục vụ công việc đi lại của gia đình. Đến nay anh đã được nhận lại chiếc xe máy nêu trên do Cơ quan điều tra trả rồi, anh không có đề nghị gì thêm.
Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, số ma túy bị giữ là Heroine, có tổng khối lượng 0,14 gam, nguồn gốc do bị cáo mua của người đàn ông không quen biết, để sử dụng cho bản thân. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.
Xét lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác lập hồi 12 giờ 00 phút, ngày 24/6/2023; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản bóc mở niêm phong xác định khối lượng, bản kết luận giám định số 1619 ngày 27/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Heroine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.
[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Lò Văn D tàng trữ khối lượng 0,14 gam Heroine, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
… …… 5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 249 BLHS.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Lò Văn D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Bị cáo có 01 tiền sự. Ngày 10/9/2019 bị cáo bị TAND huyện Q, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, ngày 10/9/2021 bị cáo chấp hành xong thời gian cai nghiện, tiền sự nêu trên của bị cáo tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội chưa được xoá tiền sự theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2020. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đàm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.
[7] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp, không có tài sản giá trị lớn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.
[8] Về vật chứng vụ án:
Đối với 01 phong bì công văn của Công an huyện Q được niêm phong, dán kín. Mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn D – Tàng trữ trái phép chất ma tuý gồm: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng + 01 (một) mảnh nilon (loại vỏ đựng bơm kim tiêm sử dụng một lần) + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau tại mép dán giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 098726 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên của bị can Lò Văn D cùng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q, tỉnh Sơn La. Hội đồng xét xử thấy đây là vật chứng không có giá trị sử dụng, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại WAVE S, màu sơn đỏ đen, số khung RLHJC4315BY166333, số máy JC43E1727192, xe máy đã qua sử dụng, thu giữ của Lò Văn D. Qua điều tra xác minh cho thấy, chiếc xe mô tô này thuộc quyền sở hữu của anh Lò Văn H, sinh năm 1989, trú tại bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La. Anh Lò Văn H là anh trai ruột của Lò Văn D. Ngày 24/6/2023 D mượn xe của anh, anh đã giao chiếc xe cho D sử dụng, sau đó Lò Văn D đã dùng vào việc đi tìm mua ma tuý và sử dụng, anh không hay biết. Ngày 19/7/2023 anh có đơn xin được nhận lại chiếc xe để phục vụ công việc đi lại của gia đình. Ngày 12/9/2023 cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã trả lại cho gia đình anh chiếc xe nêu trên cùng giấy tờ xe liên quan đến chiếc xe rồi. Trước phiên toà xét xử hôm nay anh không có đề nghị gì thêm. Hội đồng xét xử xét cần chấp nhận.
[9] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo như bị cáo đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, không có căn cứ điều tra làm rõ. Vì vậy, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.
[10] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lò Văn D là người dân tộc, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn - Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
-Xử phạt bị cáo Lò Văn D 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 24/6/2023).
- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Lò Văn D.
2. Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy:
- 01 phong bì công văn của Công an huyện Q được niêm phong, dán kín. Mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn D – Tàng trữ trái phép chất ma tuý gồm: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng + 01 (một) mảnh nilon (loại vỏ đựng bơm kim tiêm sử dụng một lần) + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau tại mép dán giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 098726 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên của bị can Lò Văn D cùng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q, tỉnh Sơn La.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 50/2023 ngày 19/9/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lò Văn D là người dân tộc, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn - Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 28/9/2023.
Bản án 53/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 53/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về