TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 53/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH PH
Trong ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 39/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
99/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1995 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Th, xã Tr, huyện C, TP.Cần Thơ.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Th, xã Tr, huyện C, TP.Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc H trình bày:
- Về hôn nhân: Qua mai mối và được sự đồng ý của cha, mẹ gia đình hai bên nên vào năm 2018 chị và anh Nguyễn Văn Ph đã cưới nhau, ngày 24/7/2018 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trung An, huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Sau khi cưới, vợ chồng sống chung với cha, mẹ chồng tại ấp Th, xã Tr, huyện C, thành phố Cần Thơ được khoảng một năm thì đến tỉnh Bình Dương sinh sống và làm việc tại đây. Khi ở tỉnh Bình Dương, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không còn tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống, anh Ph không quan tâm, chăm sóc chị nên vợ chồng thường xuyên cự cải dù chỉ chuyện nhỏ. Đến tháng 8/2020 do mâu thuẫn quá trầm trọng nên vợ chồng đã ly thân. Từ khi ly thân cho đến nay, hai bên đều có cuộc sống riêng, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Nay chị nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân như thế không đem lại hạnh phúc cho cả hai nên chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Ph.
- Về con chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nghĩa vụ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Văn Ph không có mặt trong quá trình giải quyết vụ án và cũng không có văn bản gửi cho Tòa án thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc H.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng.
Về nội dung:
- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Ngọc H và anh Nguyễn Văn Ph có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh chị được pháp luật công nhận. Trong thời kỳ hôn nhân, do chị H và anh Ph không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên phát sinh mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra, hai bên đã cố hàn gắn nhưng không thành. Từ tháng 8/2020 chị H và anh Ph đã sống ly thân cho đến nay. Nay chị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Ph, còn anh Ph mặc dù được Tòa án triệu tập đến làm việc, hòa giải về yêu cầu ly hôn của chị H nhưng anh Ph đã không đến. Điều này, thể hiện anh Ph cũng không còn thiết tha gì đến hôn nhân giữa anh và chị H. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.
- Về con chung: Không có nên không xem xét giải quyết.
- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc H khai không có nên không xem xét giải quyết, khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
- Về nghĩa vụ chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc H khai không có nên không xem xét giải quyết, khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Ngọc H khởi kiện anh Nguyễn Văn Ph có địa chỉ tại ấp Th, xã Tr, huyện C, thành phố Cần Thơ với yêu cầu ly hôn nên xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về thủ tục tố tụng: Khi tiến hành xét xử, chị Nguyễn Thị Ngọc H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn Ph được triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H, anh Ph theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc H và anh Nguyễn Văn Ph cưới nhau vào năm 2018 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên hôn nhân của anh chị có giá trị pháp lý. Trong thời kỳ hôn nhân, chị H khai, chị và anh Ph sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do không còn tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống, anh Ph không quan tâm, chăm sóc chị nên vợ chồng thường xuyên cự cải dù chỉ chuyện nhỏ. Đến tháng 8/2020 do mâu thuẫn quá trầm trọng nên vợ chồng đã ly thân. Từ khi ly thân cho đến nay, hai bên đều có cuộc sống riêng, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Nay chị nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân như thế không đem lại hạnh phúc cho cả hai nên chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Ph. Còn anh Nguyễn Văn Ph, mặc dù đã được triệu tập đến Tòa án nhiều lần để giải quyết, nhưng anh vẫn không đến và cũng không có bất cứ văn bản nào gửi cho Tòa án để nêu ý kiến của mình. Như vậy, anh Ph đã từ bỏ quyền, nghĩa vụ chứng minh của mình. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy, cuộc sống hôn nhân muốn đem lại hạnh phúc lâu dài cho cả hai vợ chồng thì vợ chồng phải có nghĩa vụ chung sống với nhau, yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc gia đình. Tuy nhiên cuộc sống hôn nhân giữa chị H và anh Ph có quá nhiều mâu thuẫn, bất hòa không thể hàn gắn, từ khi ly thân cho đến nay, hai bên đều có cuộc sống riêng, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và tình cảm vợ chồng cũng không còn. Điều này cho thấy, đời sống chung giữa chị H và anh Ph không thể kéo dài, mục đích hôn nhân đã không đạt được. Ngoài ra, anh Ph cũng không đến Tòa án để thể hiện ý kiến được hàn gắn, đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[2.2] Về con chung: Không có nên không xem xét giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung: Ghi nhận lời khai của đương sự là không có, khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
[2.4] Về nghĩa vụ chung: Ghi nhận lời khai của đương sự là không có, khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
[2.5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc H phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc H đối với anh Nguyễn Văn Ph.
1.1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc H và anh Nguyễn Văn Ph.
1.2. Về con chung: Không có nên không xem xét giải quyết.
1.3. Về tài sản chung: Ghi nhận lời khai của đương sự là không có, khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
1.4. Về nghĩa vụ chung: Ghi nhận lời khai của đương sự là không có, khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác.
2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Huyền đã nộp theo biên lai số 013615 ngày 10 tháng 3 năm 2021 thành án phí.
3. Tuyên án công khai. Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 53/2021/HNGĐ-ST ngày 15/06/2021 về ly hôn giữa chị H và anh Ph
Số hiệu: | 53/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về