TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2020/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 56 /2020/QĐXXST - HS ngày 22 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh ngày 17/4/1997; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Núc Th, xã Hồ S, huyện Tam Đ, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề ng H: Không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Hi; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 01 tiền án Tại bản án số 46/2016/HSST ngày 27/10/2016, Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Văn H 02 năm 03 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. H chấp hành án xong, ra trại ngày 27/4/2018; tiền sự: Không; nhân thân: Tại quyết định số 36/QĐ – XPHC ngày 03/7/2014 của Công an huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Văn H mức phạt 500.000đ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 19/6/2015, H đã chấp hành nộp phạt xong; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/02/2020 đến nay (có mặt).
Bị hại: Anh Mạc Văn Hn, sinh năm 1997; nơi cư trú: Thôn Đồng Q, xã Đạo Tr, huyện Tam Đ,tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Hi, sinh năm 1974:
nơi cư trú: Thôn M, xã Hướng Đ, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 16/11/2019 anh Mạc Văn Hn, sinh năm 1997 là bạn Nguyễn Văn H điều kHn xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 88E1 – 260.86 đến nhà H, rủ H lên thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc chơi, H đồng ý. Sau đó, anh Hn điều kHn xe máy chở H vào thành phố Vĩnh Yên chơi điện tử và đi ăn đêm uống rượu đến khoảng 03 giờ ngày 17/11/2019 về phòng trọ của anh Hn ở số nhà 6, ngõ 1, đường Kim Đồng, KHC 8, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để ngủ. Khi về đến phòng trọ, anh Hn dựng xe máy trước cửa phòng, và để chìa khóa xe, 01 ví giả da bên trong có 630.000đ, 01 thẻ căn cước công dân, 01 đăng ký xe máy bản phô tô ở trên mặt bàn gỗ kê gần đầu giường ngủ rồi đi ngủ. Thấy anh Hn ngủ say H đã lén lút trộm cắp chìa khóa, ví tiền và dắt xe máy ra ngoài phòng trọ rồi điều kHn xe máy vừa trộm cắp được của anh Hn đi chơi lang thang. Khoảng 12 giờ cùng ngày 17/11/2019 anh Hn ngủ dậy không thấy H đâu, phát hiện bị mất ví tiền và xe máy nên anh Hn đã gọi điện cho H nhưng H tắt máy không nghe nên anh Hn đã làm đơn trình báo gửi Công an phường Liên Bảo. Sau khi trộm cắp tài sản của anh Hn thì H điều kHn xe máy đi chơi đến ngày 19/11/2019 thì về nhà gặp ông Nguyễn Văn Dựng (là bác ruột của H) để nhờ ông Dựng đi hỏi vợ cho H. Khi thấy H điều kHn xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 thì ông Dựng hỏi H “xe của ai đó?”, H nói “xe mua của bạn 4.000.000đ”, ông Dựng không hỏi gì nữa, H tiếp tục điều kHn xe máy đi chơi không về nhà. Sau đó, cơ quan Công an thành phố Vĩnh Yên đã đến gia đình H triệu tập H lên làm việc nhưng H không có ở nhà, đi đâu làm gì không rõ, cơ quan điều tra thông báo cho ông Dựng biết việc H đã trộm cắp xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 tại thành phố Vĩnh Yên. Đến ngày 24/11/2019, H điều kHn xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 về nhà thì ông Dựng đã giữ lại xe máy nên H cất chiếc ví giả da bên trong có 01 thẻ căn cước công dân và 01 đăng ký xe máy bản phô tô mang tên Mạc Văn Hn ở ngăn bàn gần giường ngủ trong nhà và bỏ trốn, số tiền 630.000đ H đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 20/11/2019, anh Mạc Văn Hn có đơn trình báo tới Công an phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên về việc ngày 17/11/2019 anh bị Nguyễn Văn H trộm cắp mất xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 88E1 – 260.86 và 01 chiếc ví giả da bên trong có 630.000đ, 01 thẻ căn cước công dân, 01 đăng ký xe máy bản phô tô đều mang tên Mạc Văn Hn. Trị giá thiệt hại về tài sản là 20.130.000đ.
Ngày 24/11/2019, ông Nguyễn Văn D đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 là tài sản do H trộm cắp của anh Hn ngày 17/11/2019 để phục vụ công tác điều tra.
Ngày 10/02/2020, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã tạm giữ tại nhà Nguyễn Văn H ở thôn Núc Thượng, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc 01 chiếc ví giả da màu đen bên trong có 01 thẻ căn cước công dân và 01 đăng ký xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 (bản phô tô) đều mang tên Mạc Văn Hn.
Ngày 12/02/2020, bà Nguyễn Thị Hi (là mẹ đẻ của H) đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên số tiền 630.000đ để bồi thường khắc phục hậu quả.
Tại Kết luận định giá tài sản số 221/KL-HĐĐG ngày 29/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: “01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn xanh – bạc, BKS: 88E1 – 260.86, đăng ký lần đầu ngày 25/7/2018. Xe đã cũ, đã qua sử dụng có trị giá 10.000.000đ”.
Tại Cáo trạng số: 24/CT-VKS-VY ngày 17/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa Nguyễn Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.
Bị hại vắng mặt nhưng đã có lời khai phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị: Xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự theo quy định.
Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt không có ý kiến tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 17/11/2019, tại phòng trọ của anh Mạc Văn Hn ở số nhà 6, ngõ 1 đường Kim Đồng, khu hành chính số 8, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn H đã lén lút chiếm đoạt xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 88E1 – 260.86 và 01 ví giả da bên trong có 630.000đ, 01 thẻ căn cước công dân, 01 đăng ký xe máy bản phô tô đều mang tên Mạc Văn Hn để sử dụng làm phương tiện đi lại và lấy tiền tiêu xài cá nhân. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 10.630.000đ.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt cải tạo giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội. Do vậy, cần pHi xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY
Bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng.
Bị cáo là thanh niên tuổi đời còn trẻ có sức khỏe nhưng lại lười lao động, ham chơi, đua đòi, không chịu tu dưỡng sớm vướng vào các tệ nạn xã hội, bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lén lút chiếm đoat tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do bản chất lười lao động, muốn có tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu sài cá nhân bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý do đó cần xử phạt thật nghiêm để làm gương cho người khác.
Về nhân thân các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã bồi thường khắc phục hậu quả đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm b,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên bị cáo là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó là bài học để cải tạo tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, ngoài ra hành vi của bị cáo gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân lao động do đó cần xử phạt bị cáo thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, buộc pHi chấp hành hình phạt tù giam một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Đối với ông Nguyễn Văn Dựng là người nhìn thấy H điều kHn xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 về nhà ở xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, tuy nhiên ông Dựng hỏi H về nguồn gốc xe máy thì H nói là mua của bạn, sau đó khi cơ quan Công an thông báo cho ông Dựng biết H đã trộm cắp xe máy trên thì ông Dựng đã giữ lại xe máy của H để giao nộp cho cơ quan điều tra, ông Dựng không biết gì về hành vi phạm tội của H, do vậy cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên không đề cập xử lý là có căn cứ.
[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:
Đối với 01 chiếc ví giả da màu đen, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Hn, anh Hn xác định chiếc ví đó đã cũ, giá trị nhỏ nên không đề nghị định giá thiệt hại đối với chiếc ví giả da bị H trộm cắp nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Đối với 01 chiếc ví giả da, số tiền 630.000đ; 01 thẻ căn cước công dân và 01 đăng ký xe máy, BKS: 88E1 – 260.86 đều mang tên anh Mạc Văn Hn, quá trình điều tra cơ quan công an đã trả lại cho anh Hn, anh Hn đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường thiệt hại nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo pHi chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 10/02/2020).
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn H pHi chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.
Bản án 53/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 53/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về