Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 53/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ VIỆC LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sư thụ lý số 248/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2020 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 45/TBXX ngày 16/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1993 Địa chỉ: Tổ 05, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Trường G, sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ 05, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện; bản tự khai; các tài liệu có trong hồ sơ nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Chị Trần Thị T và Nguyễn Trường G đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái vào ngày 12/11/2013 trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu.Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm không thể chung sống cùng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã tự hòa giải và hai bên gia đình khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không khắc phục được. Hiện chị T và anh G đã ly thân từ tháng 3/2020 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh G.

Về con chung: Chị T và anh G có 01 con chung là cháu Nguyễn Tuấn P, sinh ngày 14/9/2014, ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu P không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản: Chị T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn Nguyễn Trường G vắng mặt, không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Bị đơn Nguyễn Trường G có hộ khẩu thường trú tại tổ 05, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc “ Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Nguyên đơn chị Trần Thị T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn Nguyễn Trường G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập bị đơn Nguyễn Trường G nhiều lần nhưng anh G vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị T. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử lấy yêu cầu khởi kiện, lời trình bày và các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp làm chứng cứ giải quyết vụ án.

[3]. Về hôn nhân: Chị Trần Thị T kết hôn với Nguyễn Trường G trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm không thể chung sống cùng nhau. Chị T và anh G đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh G đã trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận.

[3]. Về con chung:

Chị T và anh G có 01 con chung là cháu Nguyễn Tuấn P, sinh ngày 14/9/2014. Ly hôn T có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu P không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyện vọng của chị T là chính đáng, song việc giao con cho ai nuôi phải xem xét về quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện cháu P còn nhỏ cần sự chăm sóc trực tiếp của chị T, anh G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không có lý do cũng không có ý kiến gì về việc nuôi con. Do vậy, nên giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp.

[4]. Về chia tài sản: Chị T, anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5].Về án phí và quyền kháng cáo: Chị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Chị T, anh G có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân:

Chị Trần Thị T được ly hôn anh Nguyễn Trường G.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Trần Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Tuấn P, sinh ngày 14/9/2014 cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Anh Nguyễn Trường G không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số: AA/2017/0006500, ngày 28-7- 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị T và Nguyễn Trường G được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:53/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về