TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 53/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 271/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1996; HKTT: Ấp B, xã A, huyện D, tỉnh Bình Dương.
2. Bị đơn: Ông Lưu Tấn P, sinh năm 1976; HKTT: Ấp B, xã A, huyện D, tỉnh Bình Dương.
Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/7/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N và ông Lưu Tấn P chung sống với nhau từ năm 2013. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 22/9/2014 tại Ủy ban nhân dân An Lập, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên P sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi cự lẫn nhau, giữa vợ chồng sống chung không còn tình cảm, không có hạnh phúc. Hiện nay, bà N thấy rằng tình trạng hôn nhân đã ở mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông P.
- Về con chung: Quá trình chung sống bà N và ông P có 01 con chung tên Lưu Tấn K, sinh ngày 02/6/2015. Khi ly hôn bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn (ông Lưu Tấn P):
Ông P được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do cũng không cung cấp chứng cứ gì.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng có ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự, người tham gia tố tụng đúng thành phần. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung về thủ tục tố tụng.
Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Chứng cứ được Hội đồng xét xử xem xét gồm:
Đơn xin ly hôn ngày 06/7/2020; bản sao giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu; bản sao giấy khai sinh Lưu Tấn K; trích lục kết hôn; bản tự khai; Giấy Đơn xin giải quyết vắng mặt của bà Nguyễn Thị N; biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Từ những tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Sau khi xem xét, thảo luận, Hội đồng xét xử nhận định, [1] Về tố tụng:
[1.1] Quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn ông Lưu Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng nhưng bị đơn có tình vắng mặt không có lý do. Nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.
[1.2] Nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc ly hôn và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lưu Tấn K, sinh ngày 02/6/2015. Bị đơn là ông Lưu Tấn P có nơi cư trú tại ấp B, xã A, huyện D nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quan hệ pháp luật của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn chung sống với nhau từ năm 2013. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo luật định tại Ủy ban nhân dân xã An Lập, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, theo giấy đăng ký kết hôn số 63 ngày 22/9/2014. Quá trình chung sống, giữa vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm. Nguyên đơn xác định mâu thuẫn đã trầm trọng, không hàn gắn được. Nguyên đơn cũng không còn chung sống cùng bị đơn nên yêu cầu được giải quyết ly hôn. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác…và lý do chính đáng khác. Nguyên đơn và bị đơn không có thỏa thuận với nhau về việc mỗi người sống một nơi, nhưng cả hai đã không sống chung một thời gian dài. Quá trình tiến hành tố tụng bị đơn được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, được tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng bị đơn cố tình vắng mặt, bị đơn không cung cấp ý kiến về các yêu cầu của nguyên đơn. Từ đó, hội đồng xét xử nhận thấy bị đơn không có nguyện vọng đoàn tụ cùng nguyên đơn. Lời trình bày của nguyên đơn phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án, do vậy Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng nguyên đơn và bị đơn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Lưu Tấn K, sinh ngày 02/6/2015. Khi ly hôn nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Bị đơn cố tình vắng mặt, bị đơn không cung cấp ý kiến về các yêu cầu nuôi con của nguyên đơn. Từ đó Hội đồng xét xử nhận thấy bị đơn đã từ bỏ các quyền của mình được pháp luật bảo vệ. Yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] kiến của đại diện Viện Kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân:
- Căn cứ vào các Điều 9, 19, 55, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình:
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
I. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Nguyễn Thị N đối với ông Lưu Tấn P.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N được ly hôn với ông Lưu Tấn P.
2. Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lưu Tấn K, sinh ngày 02/6/2015. Ghi nhận sự tự nguyện của bà N về việc không yêu cầu ông Lưu Tấn P cấp dưỡng nuôi con.
Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị N không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
II. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:
Án phí ly hôn: Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0033020 ngày 06 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 53/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về