Bản án 53/2020/DS-ST ngày 02/10/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN - TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 53/2020/DS-ST NGÀY 02/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 157/2020/TLST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 8 năm 2020 giữa:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1970. (Có mặt) Địa chỉ: ấp S, xã P, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Anh Lê Văn Z, sinh năm 1975. ( Vắng mặt) Địa chỉ: ấp P1, xã P, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 29/6/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Văn H trình bày: Ngày 19/9/2019 anh có hợp đồng mua bán ống nước (ống dẫn nước) với anh Lê Văn Z để anh Z đặt vườn tưới cây cho ông Phan Văn M với tổng số tiền là 30.600.000đ. Hai bên chỉ thỏa thuận miệng, sau khi thỏa thuận anh Z kêu chở ống nước đến nhà ông M và hứa trả tiền cọc trước là 10.000.000đ, số còn lại làm xong công trình cho ông M khoảng 03 ngày sẽ trả đủ tiền. Nhưng sau khi anh Z làm xong công trình cho ông M, anh Z không trả tiền và cũng không đưa tiền cọc trước như đã thỏa thuận. Anh nhiều lần gặp anh Z đòi tiền nhưng anh Z vẫn không trả nên ngày 06/02/2020 anh nhờ tổ hòa giải ấp tổ chức hòa giải, anh Z trả cho anh được số tiền 12.600.000đ, còn 18.000.000đ viết cam kết đến ngày 06/3/2020 sẽ trả lại cho anh nhưng vẫn không trả. Anh khởi kiện yêu cầu anh Z trả lại số tiền còn nợ 18.000.000đ.

 Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn Lê Văn Z để triệu tập bị đơn Lê Văn Z đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn Lê Văn Z vẫn vắng mặt không lý do và không gởi văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên không tiến hành hòa giải được. Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt hợp lệ cho bị đơn Lê Văn Z, anh Z vắng lần thứ nhất nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Tòa án đã t riệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh Z vẫn vắng mặt không lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Lê Văn Z.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn anh Nguyễn Văn H giữ nguyên ý kiến đã trình bày, không yêu cầu tính lãi chậm trả đối với số tiền còn nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Lê Văn Z đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Z là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn H, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Ngày 19/9/2019 anh Nguyễn Văn H có bán ống nước (ống dẫn nước) cho anh Lê Văn Z, để anh Z đặt ống nước cho vườn của ông Phan Văn M với tổng số tiền là 30.600.000đ, hai bên thỏa thuận miệng và thỏa thuận thời gian thanh toán hợp đồng. Anh H đã giao ống nước cho anh Z làm xong công trình nhưng anh Z không thanh toán tiền như thỏa thuận nên anh H yêu cầu tổ hòa giải ấp tổ chức hòa giải, sau khi hòa giải anh Z đã trả cho anh H số tiền 12.600.000đ và viết cam kết thỏa thuận số tiền còn nợ 18.000.000đ hẹn ngày 06/3/2020 sẽ trả. Qua đó, xác định giữa nguyên đơn anh Nguyễn Văn H và bị đơn anh Lê Văn Z có thỏa thuận hợp đồng mua bán tài sản theo quy định quy định tại Điều 430 của Bộ luật dân sự năm 2015. Anh H khởi kiện đến Tòa án và có gửi bản sao đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho anh Z và Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng cho anh Z nhưng anh vẫn không gởi văn bản trình bày ý kiến về nội dung khởi kiện của anh H. Như vậy cho thấy, anh Z thỏa thuận mua ống nước (ống dẫn nước) của anh H và còn nợ số tiền 18.000.000đ là có thật. Anh H khởi kiện yêu cầu anh Z có nghĩa vụ trả lại số tiền còn nợ 18.000.000đ là có căn cứ chấp nhận phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự năm 2015.

[2.2] Về lãi suất, nguyên đơn anh Nguyễn Văn H không yêu cầu bị đơn anh Lê Văn Z trả tiền lãi đối với số tiền còn nợ chậm trả nên không đề cập giải quyết.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Văn H được chấp nhận nên buộc bị đơn Lê Văn Z phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền buộc trả cho anh H theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Cụ thể buộc anh Z nộp số tiền 900.000đ án phí dân sự sơ thẩm [tính 18.000.000đ x 5%]

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430, khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc bị đơn anh Lê Văn Z có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Văn H số tiền còn nợ 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng).

Kể từ ngày xét xử sơ thẩm nếu anh Lê Văn Z chưa thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc anh Lê Văn Z có nghĩa vụ nộp 900.000đ (Chín trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho anh Nguyễn Văn H số tiền 450.000đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0016229 ngày 30/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Ôn.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn Lê Văn Z vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2020/DS-ST ngày 02/10/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:53/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về