TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 53/2020/DS-PT NGÀY 25/12/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 45/2020/TLPT-DS ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc “tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 04/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 297/2020/QĐ-PT ngày 16 tháng 11 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 320/2020/QĐ-PT ngày 26/11/2020 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa xét xử phúc thẩm số 2971/TB-TA ngày 04/12/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1966; nơi cư trú: Số 16, đường 1, Khu dân cư An Tr, xã An Đ, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Quang Tr, sinh năm 1950; nơi cư trú: Số 16, đường 1, Khu dân cư An Tr, xã An Đ, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1955; nơi cư trú: Số 14, đường 1, Khu dân cư An Tr, xã An Đ, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Anh V, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Hoa Ph - Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn H, bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị V và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Quang Tr trình bày:
Sáng ngày 29/9/2018, gia đình ông bà làm mái tôn chống nóng trên mái tầng hai, có thuê hai người thợ Phạm Văn S và Đào Chí T. Khoảng 08 giờ cùng ngày, khi anh T và anh S đang lợp mái tôn thì ông Nguyễn Văn H hàng xóm liền kề cho rằng mái tôn nhà bà V đã lấn sang đất của nhà ông H nên ông H đứng trên mái tầng hai nhà ông H, tay cầm sẵn một cây gậy tre dài hơn 2,5m và một thanh sắt nhổ đinh dài khoảng 0,8m, ông H đập bẹp tôn nhà ông bà V. Thấy vậy, anh T gọi bà V, khi lên mái nhà bà V cầm một gậy tre dài từ 70 đến 80cm, khi gặp ông H, bà V và ông H cãi chửi nhau, bà V và ông H cùng xông vào dùng gậy vụt nhau, anh T vào can ngăn hai bên và cầm hai cây gậy của bà V và ông H vứt về phía mái của hai nhà, bà V bị ngã nhưng không bị thương ở đâu, hai người không dừng lại mà tiếp tục cãi chửi nhau và xông vào đánh nhau tiếp, bà V túm được đầu gậy của ông H hai bên dùng sức xô đẩy nhau, bà V yếu hơn ông H nên bị ông H đẩy ngã ngửa xuống mái tôn giáp danh giữa nhà bà V và nhà ông H. Khi bà V đã bị đẩy ngã, ông H vẫn cầm gậy ấn bà V xuống cho đến khi anh Sáng thấy vậy chạy lại thì ông H mới buông tay ra, anh T dìu bà V xuống dưới nhà. Sau đó bà V gọi điện cho ông Tr về nhà, lúc về ông thấy bà V kêu đau bên mạn sườn phải, khó thở. Bà V nhờ bà Mùi hàng xóm đưa bà V đi cấp cứu tại bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng, kết quả khám tại bệnh viện bà V bị gãy 02 xương sườn bên phải, kết quả giám định bị tổn thương cơ thể là 05%, thương tích này của bà V là do ông H đẩy ngã bà V trong lúc bà V và ông H giằng co cây gậy tre của ông H. Sau khi bị ngã gẫy xương, bà V đã phải điều trị ở Bệnh viện Việt Tiệp từ ngày 29/9/2018 đến ngày 02/10/2018 về nhà và bó thuốc lam ở nhà trong hai tháng từ ngày 02/10/2018 đến ngày 02/12/2018. Bà V đã yêu cầu Cơ quan Công an huyện An Dương khởi tố nhưng Công an huyện An Dương không khởi tố vụ án nên bà khởi kiện vụ án dân sự đối với ông H tại Tòa án.
Bà V yêu cầu ông H bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm với số tiền là 27.500.000 đồng, bao gồm: Chi phí chữa trị thương tích từ ngày 29/9/2018 đến ngày 02/12/2018 có H đơn và biên nhận là 16.600.000 đồng; tiền mất thu nhập của người chăm sóc trong 03 ngày (30/10/2018 đến 02/11/2018) bà V nằm viện là 900.000 đồng, chi phí phục hồi sức khỏe cho bà V trong 02 tháng điều trị từ ngày 02/10/2018 đến ngày 02/12/2018 là 10.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông H yêu cầu bà V bồi thường số tiền là 101.029.000 đồng, bà V không đồng ý vì thương tích ở ngón tay của ông H không phải do bà V gây ra mà do ông H tự ngã ở dưới sân nhà ông H, bà V và ông H đều cãi chửi nhau nên không làm tổn hại đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của ông H, tại thời điểm xảy ra xô xát với bà V, ông H và vợ đều ở nhà không làm thêm công việc gì nên không bị mất thu nhập như yêu cầu của ông H.
Bị đơn là ông Nguyễn Văn H trình bày:
Việc nhà bà Nguyễn Thị V thuê hai người thợ để làm mái tôn chống nóng trên mái nhà tầng hai nhà bà V vào sáng ngày 29/9/2018 như lời khai của bà V là đúng. Khi ông lên mái nhà mình, ông kiểm tra thì mái tôn nhà bà V có làm sang khoảng không đất nhà ông nên ông yêu cầu hai người thợ làm đúng ranh giới đất nhà bà V nhưng ông nhìn thì mái tôn hai người thợ làm đã lấn sang khoảng không nhà ông nên ông đã dùng gậy tre gõ làm lõm tôn nhà bà V. Sau đó bà V ở trong nhà ra ngoài đường đứng trước cửa nhà gọi ông xuống đánh nhau, ông không xuống, bà V cầm gậy gỗ dài 80cm lên gác và đứng ở bên mái nhà bà V chửi ông, ông và bà V đứng cãi chửi nhau trên mái nhà của hai bên, bà V cầm gậy gỗ xông sang mái nhà ông đánh ông, lúc đó ông cầm gậy tre đứng sát ở mái nhà ông đề phòng và gạt gậy của bà V ra hai bên, gậy gỗ bà V đập vào ngón tay cái bàn tay phải ông gây phù nề và chảy máu. Sau đó anh Sáng ra đứng trên mái nhà ông can không cho ông và bà V đánh nhau, anh Sáng giật gậy gỗ của bà V làm bà V mất đà ngã trên sàn mái bê tông nhà ông, lưng bà V bị va và cọ vào mép của mái tôn nhà ông gây sứt sát ở lưng, bà V bị ngã nằm nghiêng bên trái. Sau đó bà V đứng dậy đi về mái nhà bà V lấy gạch chỉ ném về phía ông, lúc đầu là nửa viên, lần sau cả viên nhưng ông tránh được nên không trúng người. Bà V lại tiếp tục xông vào đánh nhau với ông nhưng anh Sáng gạt ông và bà V ra hai phía, bà V lùi về phía sau bị mất đà vướng vào gờ mái bê tông, ngã xuống tấm tôn nhà ông lợp hành lang, bà V ngã nghiêng về bên phải. Sau khi bà V ngã, bà V đứng dậy đi về phía mái nhà bà V và đi xuống dưới nhà, bà V lại ra trước cửa nhà đứng chửi, xúc phạm đến danh dự của ông trước chỗ đông người. Thương tích ở ngón tay cái bàn tay phải của ông là do bà V dùng gậy gỗ đập vào chứ không phải do ông bị ngã ở sân như lời khai của bà V, khi ông Tr về có đổ chất bẩn vào sân nhà ông và ông có bị trượt ngã nhưng không bị thương tích gì.
Thương tích của ông ở ngón cái bàn tay phải do bà V dùng gậy gỗ đánh ông trực diện kết quả giám định bị tổn thương cơ thể 04%. Do ông không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự nên Cơ quan Công an huyện An Dương không khởi tố vụ án hình sự. Nay bà V khởi kiện đòi ông bồi thường với số tiền là 27.500.000 đồng, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà V vì thương tích của bà V không phải do ông gây ra mà do bà V bị mất đà ngã. Ngược lại thương tích ở ngòn cái bàn tay phải của ông là do bà V dùng gậy gỗ trực tiếp đánh và bà V có lời lẽ chửi bới, xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm của ông ở chỗ đông người làm cho ông bị mất ăn, mất ngủ, tinh thần xa xút, xấu hổ với hàng xóm láng giềng nơi gia đình ông cư trú nên ông yêu cầu bà V bồi thường tổng số tiền là 101.029.000 đồng bao gồm: Chi phí viện phí và tiền thuốc 2.309.000 đồng, tiền mất thu nhập của bản thân 12 tháng x 5.000.000 đồng/tháng = 60.000.000 đồng, tiền công người chăm sóc 35 ngày x 200.000 đồng/ngày = 7.000.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm hại: 10 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng = 14.900.000 đồng, tiền tổn thất do danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm hại: 10 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng = 14.900.000 đồng, chi phí thuê xe đi lại bệnh viện, đến cơ quan công an và cơ quan báo chí là 1.920.000 đồng.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số 555/2018/TgT ngày 29/10/2018 của Trung tâm Pháp y Hải Phòng kết luận nạn nhân Nguyễn Thị V bị chấn thương vào vùng sườn lưng phải gây xây xước da, bầm tím, gãy xương sườn XI và XII bên phải, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do thương tích trên gây nên là 05%, thương tích trên có đặc điểm do tác động tương hỗ trực tiếp với vật tày cứng có cạnh tương đối thẳng gây nên.
Tại Bản kết luận giám định pháp ý số 600/2018/TgT ngày 16/11/2018 của Trung tâm Pháp ý Hải Phòng kết luận nạn nhân Nguyễn Văn H bị chấn thương ngón I tay phải gây sưng nề tụ máu, gãy vỡ xương đốt 2 và hỏng móng tay ngón I tay phải, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do thương tích trên gây nên là 04%, thương tích trên có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp gây nên.
Ngày 16/01/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 04/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị V số tiền là 11.850.000 đồng; buộc bà Nguyễn Thị V phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền 1.725.000 đồng. Sau khi bù trừ nghĩa vụ, buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị V số tiền 10.125.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị V bồi thường tổn thất tinh thần do danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm số tiền 14.900.000 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/8/2020 ông Nguyễn Văn H kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2020/DS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến trình bày như ở Tòa án cấp sơ thẩm.
- Bị đơn giữ nguyên trình bày như tại cấp sơ thẩm, giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại vì vết thương của nguyên đơn không do bị đơn gây nên. Bị đơn có dùng gậy lúc xảy ra cãi nhau nhưng chỉ là vung về bên phải, bên trái chứ không dùng gây thương tích cho nguyên đơn vì vậy không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự cơ bản thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của ông H, lời khai người làm chứng đủ căn cứ xác định, bà V và ông H giằng co nhau cây gậy tre hậu quả làm bà V ngã gẫy xương sườn phải tổn thương cơ thể 05%, thương tích của ông H ở ngón tay cái bàn tay phải là do trong lúc hai bên dùng gậy vụt nhau, gậy tre của bà V đã vụt vào ngón tay cái bàn tay phải của ông H tổn thương cơ thể 04%. Thương tích trên của bà V là do xô xát với ông H mà có và thương tích của ông H là do bà V dùng gậy tre đánh, do vậy bà V và ông H phải chịu trách nhiệm bồi thường thương tích cho nhau theo quy định của pháp luật.
Đánh giá về lỗi dẫn đến hai bên xô xát là do ông H có lỗi trước khi có hành vi dùng gậy đập làm lõm tôn nhà bà V nên đánh giá lỗi dẫn đến thương tích của hai bên ông H chịu 60%, bà V chịu 40%. Trên cơ sở thiệt hại, cũng như đánh giá mức độ lỗi của các bên thì thương tích của bà V là do giằng co gậy với ông H bị ngã, còn thương tích của ông H là do bà V đánh nên bà V và ông H phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nhau.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 6 Điều 26; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị V số tiền 11.850.000 đồng, buộc bà Nguyễn Thị V phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền 1.725.600 đồng. Đối trừ nghĩa vụ ông H phải bồi thường cho bà V số tiền là 10.124.400 đồng. Ông H kháng cáo nhưng không xuất trình được văn bản nào thể hiện bản án sơ thẩm đã không xem xét toàn bộ vụ án một cách khách quan làm ảnh hưởng đến quyền lợi, uy tín, danh dự của ông nên không chấp nhận kháng cáo của ông H. Về án phí, ông H là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Viện Kiểm sát tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm tại huyện An Dương nên Tòa án huyện An Dương thụ lý, giải quyết theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự là đúng thẩm quyền.
[2] Về người tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Anh V, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Hoa Ph - Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay Luật sư V vắng mặt lần thứ hai, Luật sư vắng mặt lý do đang tham gia một phiên tòa khác tuy nhiên không đưa ra tài liệu chứng minh. Xét, bị đơn có mặt tại phiên tòa, không ý kiến gì về sự vắng mặt của Luật sư. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt Luật sư V.
- Về yêu cầu kháng cáo:
[3] Hội đồng xét xử đánh giá như sau: Do nghi ngờ thợ làm tôn nhà bà V làm sang khoảng không đất nhà mình nên khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/9/2018 ông H đã dùng gậy tre đập làm lõm tôn nhà bà V, việc bà V và ông H xảy ra cãi chửi nhau, hai bên dùng gậy vụt nhau có sự chứng kiến của hai người thợ là anh Đào Chí T và anh Phạm Văn S. Tại Bút lục 171, 172 ông T khai: ... “Tôi đi sang bên nhà bà V làm thì ông H và bà V tiếp tục chửi nhau và xông vào đánh nhau bên phần mái nhà ông H, bà V và ông H dùng gậy vụt về phía nhau..., lúc này hai người cầm gậy tre của nhau và xô đẩy nhau, bà V bị hẫng chân và ngã ngửa xuống mái tôn chống nóng nhà ông H. Sau bà V được chúng tôi kéo dậy và đi về nhà”, tại Bút lục số 184 anh Sáng khai: ... “quá trình làm tôi vẫn nghe thấy tiếng ông H và bà V cãi chửi nhau, tôi không chú ý quan sát hai người. Bất ngờ tôi nghe thấy tiếng rầm trên mái tôn, tôi quay lại thì nhìn thấy bà V ngã nằm ngửa trên mái tôn giáp danh giữa nhà ông H và nhà bà V. Sau đó ông T kéo bà V về mái nhà bà V...”. Tại bản tường trình (Bút lục 155) ông H khai: “Trong quá trình xô đẩy kéo đi, đẩy lại bà V đã trượt chân ngã xuống tấm tôn mà nhà tôi lợp để che kín hành lang mỗi lần mưa nắng”, biên bản ghi lời khai ngày 29/9/2018 (bút lục số 146) ông H khai: “...trong lúc 02 bên xô đẩy kéo nhau thì bà V có ngã ra...”. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H cho rằng thương tích ở ngón tay của ông do bà V dùng gậy đập vào, ông H không thừa nhận thương tích của bà V do ông gây ra, tuy nhiên ông H có thừa nhận khi xảy ra xô sát thì hai bên có cãi vã, xô đẩy nhau, ông có dùng gây gạt bên phải bên trái. Căn cứ vào chính lời khai của ông H, lời khai người làm chứng đủ căn cứ xác định, bà V và ông H giằng co nhau cây gậy tre hậu quả làm bà V ngã gẫy xương sườn phải tổn thương cơ thể 05%, thương tích của ông H ở ngón tay cái bàn tay phải là do trong lúc hai bên dùng gậy vụt nhau, gậy tre của bà V đã vụt vào ngón tay cái bàn tay phải của ông H tổn thương cơ thể 04%. Thương tích trên của bà V là do xô xát với ông H mà có và thương tích của ông H là do bà V dùng gậy tre đánh, do vậy bà V và ông H phải chịu trách nhiệm bồi thường thương tích cho nhau theo quy định của pháp luật.
[4] Về nghĩa vụ dân sự: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường tổng cộng là 27.500.000 đồng. Bị đơn yêu cầu tổng số tiền là 101.029.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các chi phí thực tế của các đương sự nên chấp nhận tổng số tiền 19.750.000 đồng mà nguyên đơn bỏ ra, bao gồm chi phí khám, thuốc điều trị thương tích có H đơn và tiền bó thuốc lam là 16.600.000 đồng, tiền mất thu nhập của người chăm sóc trong ba ngày bà V nằm viện 900.000 đồng, chi phí bồi dưỡng sức khỏe là 45 ngày x 50.000 đồng/ngày = 2.250.000 đồng. Đối với bị đơn chấp nhận tổng số tiền là 4.314.000 đồng, chi phí khám, thuốc điều trị thương tích có H đơn là 1.214.000 đồng là, số số tiền thuê xe ôm đi bệnh viện hai lần để khám và điều trị thương tích mỗi lần 60.000 đồng x 2 lần là 120.000 đồng, tổn thất tinh thần là 2 tháng lương cơ sở x 1.490.000 đồng/tháng = 2.980.000 đồng.
[5] Xét về lỗi: Việc xô xát giữa bà V và ông H đều do lỗi của hai bên. Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá bị đơn có lỗi trước do dùng gậy đập làm lõm tôn nhà bà V nên xác định lỗi của ông H là 60% và của bà V là 40% là có cơ sở. Căn cứ vào thiệt hại, cũng như đánh giá mức độ lỗi của các bên, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trách nhiệm của ông Nguyễn Văn H đối với thiệt hại của bà Nguyễn Thị V là 19.750.000 đồng x 60% = 11.850.000 đồng; trách nhiệm của bà Nguyễn Thị V đối với thiệt hại của ông Nguyễn Văn H là 4.314.000 đồng x 40% = 1.725.000 đồng. Bù trừ nghĩa vụ giữa các bên đương sự, cần buộc ông H phải bồi thường cho bà V số tiền 10.125.000 đồng là có căn cứ. Vì vậy, kháng cáo của ông H đề nghị xem xét lại bản án sơ thẩm là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
[6] Về án phí: Bà V phải nộp án phí theo quy định. Ông H là người cao tuổi, căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ông H được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 6 Điều 26; Điều 147; khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các điều 584, điều 585, điều 590 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ điểm d, đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc, xử:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị V số tiền là 11.850.000 đồng;
Buộc bà Nguyễn Thị V phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn H số tiền 1.725.000 đồng.
Sau khi bù trừ nghĩa vụ, buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị V số tiền 10.125.000 đồng (Mười triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị V bồi thường tổn thất tinh thần do danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm số tiền 14.900.000 đồng (Mười bốn triệu chín trăm nghìn đồng).
3. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư- ỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 53/2020/DS-PT ngày 25/12/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Số hiệu: | 53/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về