Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 04/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 53/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/12/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 04/12/2019, tại Hội trường, Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 201/2019/TLS-HNGĐ ngày 20/9/2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐST-HNGĐ ngày 31/10/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 43/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Ngọc H, sinh năm 1997

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Lệ L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn S, sinh năm 1992

Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 12/9/2019, được bổ sung tại bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn chị Bùi Thị Ngọc H trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Lê Văn S kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12/2017 ngày 03/02/2017 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung với bố mẹ anh S tại thôn M, xã H, huyện L. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được gần 02 năm thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do anh S không chăm lo làm ăn, uống rượu bia về đánh đập vợ, xúc phạm bố mẹ vợ, vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay mà không ai quan tâm đến ai. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Văn S.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Lê Ngọc Bảo T, sinh ngày 31/10/2017 hiện đang sống cùng chị. Vì con đang còn nhỏ nên nguyện vọng của chị xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa chị H yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị H khai không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn Lê Văn S: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã thông báo thụ lý vụ án, triệu tập các bên đương sự, tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tham gia phiên toà đến các đương sự hợp lệ nhưng anh Lê Văn S đều vắng mặt, do đó vụ án không tiến hành hoà giải được; anh S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa lần thứ hai, bị đơn anh Lê Văn S trình bày: Về tình cảm: Quá trình kết hôn giống như chị H trình bày. Quá trình chung sống anh có uống rượu, bia nhưng không về nhà đánh đập vợ như chị H trình bày. Mới kết hôn nhưng mỗi lần xích mích nhỏ chị H thường bỏ về nhà ngoại, anh S đã nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với chị H nhưng vì thương con còn nhỏ nên anh đã rút đơn khởi kiện. Hiện tại chị H xin ly hôn thì anh đồng ý ly hôn với chị H. Về con cái: Anh S thống nhất có 01 con chung như chị H trình bày. Nguyện vọng của anh S xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Theo anh S, cháu Lê Ngọc Bảo T hiện nay đã gửi nhà trẻ, đã tự ăn uống được nên chị H trình bày con còn nhỏ là không đúng. Nếu Tòa án giao con chung Lê Ngọc Bảo T cho chị H nuôi thì anh S tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng, thời gian kể từ tháng 12/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Ngọc H và anh Lê Văn S kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng đã có khoảng thời gian chung sống hạnh phúc bên nhau. Lẽ ra anh, chị phải biết thương yêu, quý trọng chăm sóc lẫn nhau nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, hai bên thiếu sự thông cảm, chia sẽ với nhau trong cuộc sống dẫn đến vợ chồng sứt mẻ tình cảm, sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Toà án đã triệu tập, tống đạt thông báo đến anh S hợp lệ nhưng anh S vẫn không đến Toà án giải quyết chứng tỏ anh không còn quan tâm đến đời sống chung của vợ chồng, không muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình mặc dù anh S đang cư trú ở địa phương. Tại phiên tòa anh S xác định mục đích hôn nhân không đạt được nên nhất trí ly hôn với chị H, Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị Ngọc H với anh Lê Văn S là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung: Chị H và anh S có 01 con chung Lê Ngọc Bảo T, sinh ngày 30/10/2017 hiện đang sống cùng chị H. Nguyện vọng của chị H, anh S đều xin được trực tiếp nuôi con chung chứng tỏ anh, chị rất thương yêu con chung. Tuy nhiên, hiện tại cháu T chưa tròn 03 tuổi và Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ nuôi. Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Lê Ngọc Bảo T cho chị H nuôi dưỡng và buộc anh Lê Văn S cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi cháu T tròn 18 tuổi là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H, anh S khai không có nợ chung, không có tài sản chung, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 51, 55, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị Ngọc H và anh Lê Văn S.

2/ Về quan hệ con cái: Giao cho chị Bùi Thị Ngọc H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Ngọc Bảo T, sinh ngày 30/10/2017; anh Lê Văn S cấp dưỡng nuôi con cùng chị H mỗi tháng 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi cháu Lê Ngọc Bảo T tròn 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí dân sự sơ thẩm: - Án phí ly hôn: Buộc chị Bùi Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0005856 ngày 19 tháng 9 năm 2019. Chị H đã nộp đủ án phí.

- Án phí cấp dưỡng: Anh Lê Văn S phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

4/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (04/12/2019) để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2019/HNGĐ-ST ngày 04/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:53/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về