Bản án 53/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn

TÒA ÁN NH DÂN QUẬN LÊ CH, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 53/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TRANH CHẤP VỀ LY HÔN, NUÔI CON VÀ CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 270/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị H; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phường V, Quận L, Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Huy P; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phường V, Quận L, Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại Phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Huy P xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Trung, huyện An Lão, Hải Phòng vào năm 2006; đến nay vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Trường H sinh ngày 28/5/200X và Nguyễn Huy C sinh ngày 17/4/201Y.

Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc nhưng đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống, cách xây dựng kinh tế gia đình. Hơn nữa chị H còn nghi ngờ anh P có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, lạnh nhat. Mâu thuẫn của hai vợ chồng đã được hai bên gia đình, chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Từ cuối năm 2017 vợ chồng sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Trường H sinh ngày 28/5/200X và Nguyễn Huy C sinh ngày 17/4/201Y. Ly hôn chị H nhận nuôi cháu Nguyễn Huy C còn cháu Nguyễn Trường H ở với ai là tùy vào sự quyết định của cháu. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị H nhận nộp cả án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong đơn yêu cầu xin ly hôn và Phiên hòa giải tại trung tâm hòa giải, đối thoại, trong bản trình bày ngày 18/7/2017 và tại các buổi hòa giải, anh P trình bày: Anh đồng ý với lời trình bày của chị H về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn cũng như quá trình chung sống, về con chung và tài sản chung. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Mâu thuẫn vợ chồng được gia đình, bạn bè nhiều lần khuyên giải nhưng quan hệ vợ chồng không cải thiện được. Từ cuối năm 2017 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Trong đơn xin ly hôn, các buổi hòa giải tại trung tâm hòa giải, đối thoại, tại trụ sở Tòa án, anh P xác định mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn chị H kiên quyết xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Trường H sinh ngày 28/5/200X và Nguyễn Huy C sinh ngày 17/4/201Y. Ly hôn anh P xin nuôi cháu Nguyễn Huy C đến khi trưởng thành, còn cháu Nguyễn Trường H ở với ai do cháu quyết định. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ của hai bên gia đình xác nhận: Chị H và anh P phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, cách sống, anh P thường xuyên đi công tác xa nhà nên chị H có nghi ngờ anh P có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Hơn nữa hai bên không tin tưởng nhau về mặt kinh tế. Nay chị H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng anh chị về đoàn tụ cùng nuôi dạy con chung. Nếu chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân tại phiên tòa: Những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn đã chấp hành, bị đơn chưa đúng pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại Pên toà theo các quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 72 BLTTDS. Căn cứ khoản 1Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn  nH và gia đình năm 2014. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xin ly hôn. Giao con chung Nguyễn Trường H sinh ngày 28/5/200X cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Huy C sinh ngày 17/4/201Y cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại Phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bầy tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị H có đơn khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Huy P. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Huy P xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Trung, huyện An Lão, Hải Phòng vào năm 2006. Do vậy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh P là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, lối sống cách xây dựng kinh tế gia đình. Hơn nữa chị H còn nghi ngờ anh P có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Mâu thuẫn vợ chồng được gia đình, chính quyền địa phương nhiều lần khuyên giải nhưng quan hệ vợ chồng không cải thiện được. Từ cuối năm 2017 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh P đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có căn cứ cần chấp nhận.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Trường H sinh ngày 28/5/200X và Nguyễn Huy C sinh ngày 17/4/201Y. Chị H xin nuôi con Nguyễn Huy C; anh P cũng xin nhận nuôi con Nguyễn Huy C đến khi trưởng thành còn con Nguyễn Trường H ở với ai do cháu quyết định. Xét theo đơn trình bày nguyện vọng của cháu Hải muốn ở cùng với bố, cháu Chương vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm, chăm sóc nhiều hơn, theo yêu cầu của chị H và để đảm bảo cuộc sống ổn định cho các cháu nên cần giao cháu Nguyễn Trường H cho anh P nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Huy C cho chị H nuôi dưỡng đến khi con thành niên là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về quan hệ hôn nH xử: Chị Lê Thị H ly hôn với anh Nguyễn Huy P.

2/ Về con chung: Giao con chung Nguyễn Trường H sinh ngày 28/5/200X cho anh P nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Huy Csinh ngày 17/4/201Y cho chị H nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí: Chị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị H đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân theo biên lai thu tiền số 0005236 ngày 23 tháng 5 năm 2018.

Chị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:53/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về