Bản án 53/2017/KDTM-ST ngày 29/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 53/2017/KDTM-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 34/2017/TLST-KDTM ngày 23 tháng 5 năm 2017 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2017/QĐXXST-KDTM ngày 23 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ; địa chỉ: phố H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hồ Quang H, chức vụ: Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng khách hàng cá nhân Ngân hàng thương mại cổ phần Đ – Chi nhánh L, là người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn (Văn bản uỷ quyền số 8695/QĐ ngày 28/10/2016 và số 445A ngày 28/10/2016 của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ); có mặt.

2. Bị đơn:

1. Ông Lê Đăng N, sinh năm 1975;

2. Bà Lê Thị Hồng Đ, sinh năm 1978.

Cùng cư trú tại Xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ông Hồ Quang H đại diện cho nguyên đơn trình bày yêu cầu khởi kiện: Theo đề nghị của vợ chồng ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ có nhu cầu vay vốn đ bổ sung vốn lưu động kinh doanh đồ gỗ nội thất và quần áo, giữa Ngân hàng thương mại cổ phần P nay là Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (sau đây gọi tắt là ngân hàng) với ông N và bà Đ đã tự nguyện ký kết hợp đồng tín dụng số N.A.0106 ngày 07/3/2013 và Phụ lục hợp đồng tín dụng số N.A.0106.13.01/ PLHĐTD ngày 11/01/2014 thỏa thuận các nội dung cơ bản: Số tiền vay 1.500.000.000 đồng; thời hạn vay 12 tháng kể từ ngày kể từ ngày bên vay nhận nợ đầu tiên; lãi suất vay theo hình thức thả nổi với mức lãi suất kỳ đầu tiên là 15%/năm, được điều chỉnh theo nguyên tắc bằng phí điều hòa vốn của ngân hàng cộng biên độ 4%/năm, ngân hàng được quyền tự điều chỉnh mức lãi suất bằng thông báo điều chỉnh lãi suất gửi tới bên vay, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất vay; trả nợ gốc sau 12 tháng kể  từ ngày nhận nợ đầu tiên, trả lãi 01 tháng/01 lần từ ngày 5 đến ngày 10 hàng tháng; và các nội dung khác quy định quyền, nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng. Đ đảm bảo nghĩa vụ trả nợ tiền vay, ông N và bà Đ đã thỏa thuận và ký với ngân hàng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0417.10/HĐTC ngày 20/12/2010 thế chấp tài sản là quyền sử dụng 203m2 đất ở lâu dài, có số thửa 499A, tờ bản đồ số 04 tại địa chỉ Xã T, huyện T (đã được Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD 289369, vào sổ cấp GCN số CH00218 ngày 15/10/2010, người sử dụng là ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ), trong thời gian thế chấp mọi công trình, diện tích cải tạo, xây dựng thêm gắn liền với tài sản thế chấp sau khi ký hợp đồng đều thuộc tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp này đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ vay theo các hợp đồng tín dụng giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Hợp đồng thế chấp được công chứng ngày 20/10/2010, được đăng ký thế chấp ngày 20/12/2010 và đăng ký thay đổi nội dung thế chấp (thay đổi tên của bên nhận thế chấp) ngày 08/10/2015.

Thực hiện hợp đồng tín dụng, ngày 07/3/2013 ngân hàng đã giải ngân và ông N và bà Đ đã nhận đủ số tiền vay 1.500.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản và bên vay ký giấy nhận nợ ngày 07/3/2013. Sau khi nhận vốn, ông N và bà Đ đã trả được cho ngân hàng một phần tiền gốc và tiền lãi. Từ tháng 02/2014, ông N và bà Đ đã liên tục vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng. Từ tháng 01/2016 đến nay, ông N và bà Đ không trả bất kỳ một khoản nợ gốc, nợ lãi nào. Ngân hàng đã thông báo và nhiều lần làm việc với ông N và bà Đ, tuy nhiên bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cũng như không hợp tác trong việc xử lý các tài sản bảo đảm. Do vậy, ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông N và bà Đ có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 29/9/2017 là 2.297.913.097 đồng (bao gồm nợ gốc 1.470.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 556.592.819 đồng, nợ lãi quá hạn 271.320.278 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 29/9/2017 đến khi ông N và bà Đ trả hết nợ. Trường hợp ông N và bà Đ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm sau để thu hồi nợ cho ngân hàng: Quyền sử dụng 203m2 đất ở lâu dài, có số thửa 499A, tờ bản đồ số 04 tại địa chỉ Xã T, huyện T và các tài sản gắn liền với đất.

Ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ là bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thu lý vụ án và các văn bản tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên ông N và bà Đ không có ý kiến gì và cũng không có mặt tại Tòa án để đưa ra ý kiến hay tham gia vào quá trình giải quyết vụ án.

Tiến hành thẩm định tài sản thế chấp ngày 26/7/2017, trong thời gian thế chấp tài sản, ông N và bà Đ đã xây dựng một nhà 03 tầng kiểu biệt thự tại diện tích đất tiếp giáp phía Nam của diện tích 203m2 đất thế chấp. Một phần nhà 03 tầng đã xây trên diện tích 12,7m3  phần đất phía Nam của diện tích đất thế chấp. Ngân hàng không biết việc ông N và bà Đ đã xây nhà lên diện tích 12,7m2 đất đã thế chấp vì ông N và bà Đ không thông báo.

Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến quy định tại Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của bị đơn

Ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

1. Đối với yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ

Xét hợp đồng tín dụng số N.A.0106 ngày 07/3/2013 và Phụ lục hợp đồng tín dụng số N.A.0106.13.01/ PLHĐTD ngày 11/01/2014 giữa ngân hàng với ông N và bà Đ đều được ký bởi người đại diện hợp pháp của bên cho vay là ngân hàng với bên vay là ông N và bà Đ. Các bên tham gia hợp đồng có đủ năng lực hành vi dân sự, trên cơ sở tự nguyện, các thỏa thuận có nội dung và mục đích để thực hiện nhu cầu của mỗi bên, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, hợp đồng tín dụng có hiệu lực buộc các bên phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, bên cho vay là ngân hàng đã giải ngân, ông N và bà Đ đã nhận đủ số tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng. Như vậy, ngân hàng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận.

Việc ông N và bà Đ không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng là vi phạm nghĩa vụ trả nợ do các bên thỏa thuận. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng buộc ông N và bà Đ phải thanh toán số tiền tạm tính đến ngày 29/9/2017 là 2.297.913.097 đồng (bao gồm nợ gốc 1.470.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 556.592.819 đồng, nợ lãi quá hạn 271.320.278 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 29/9/2017 đến khi ông N và bà Đ trả hết nợ.

2. Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của bị đơn

Tài sản được thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông N và bà Đ mà ngân hàng yêu cầu xử lý là quyền sử dụng 203m2 đất ở lâu dài, có số thửa 499A, tờ bản đồ số 04 tại địa chỉ Xã T, huyện T (đã được Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD 289369, vào sổ cấp GCN số CH00218 ngày 15/10/2010, người sử dụng là ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ) và các tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0417.10/HĐTC ngày 20/12/2010 giữa ngân hàng với bên thế chấp là ông Lê Đăng N và Lê Thị Hồng Điệp.

Các bên khi ký hợp đồng thế chấp đã thỏa thuận tại khoản 9.1 Điều 9 của hợp đồng thế chấp “Trong thời gian thế chấp, mọi công trình, diện tích cải tạo, xây dựng thêm gắn liền với tài sản đã thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp”. Do đó, một phần của nhà 3 tầng xây kiểu biệt thự của ông N và bà Đ có diện tích xây dựng 12,7m2 trên diện tích đất thế chấp thuộc tài sản thế chấp.

Xét hợp đồng thế chấp được ký bởi người đại diện hợp pháp của bên nhận thế chấp (ngân hàng) với bên thế chấp là chủ sở hữu tài sản hợp pháp. Các bên tham gia hợp đồng có đủ năng lực hành vi dân sự, trên cơ sở tự nguyện, các thỏa thuận có nội dung và mục đích đ  thực hiện quyền nghĩa vụ của mỗi bên, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng thế chấp và phụ lục được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Do đó, hợp đồng thế chấp và phụ lục có hiệu lực buộc các bên phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại hợp đồng.

Vì vậy, trong trường hợp ông N và bà Đ thực hiện không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì xử lý tài sản bảo đảm là diện tích đất 203m2 đã thế chấp nêu trên và các tài sản gắn với đất đ  thu hồi nợ là thực hiện đúng hợp đồng thế chấp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về áp dụng pháp luật, hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp được các bên ký kết và thực hiện tại thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực pháp luật và Luật các tổ chức tín dụng. Hợp đồng này đang được thực hiện có nội dung và hình thức phù hợp với Bộ luật dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào đi m b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự để áp dụng Bộ luật dân sự và Luật các tổ chức tín dụng giải quyết vụ án.

[4] Về nghĩa vụ chịu án phí, yêu cầu khởi kiện của ngân hàng được chấp nhận nên ông N và bà Đ có nghĩa vụ chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 1 Điều 466, Điều 320, Điều 325 của Bộ luật dân sự; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, buộc ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền tạm tính đến ngày 29/9/2017 là 2.297.913.097 đồng (bao gồm nợ gốc 1.470.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 556.592.819 đồng, nợ lãi quá hạn 271.320.278 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 29/9/2017 theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đến khi ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ trả hết nợ.

Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng thì lãi suất mà bên vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng.

- Trường hợp ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ thực hiện không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đ được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là quyền sử dụng 203m2 đất ở lâu dài, có số thửa 499A, tờ bản đồ số 04 tại địa chỉ Xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng (đã được Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD 289369, vào sổ cấp GCN số CH00218 ngày 15/10/2010, người sử dụng là ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ) và các tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0417.10/HĐTC ngày 20/12/2010 giữa ngân hàng với bên thế chấp là ông Lê Đăng N và Lê Thị Hồng Điệp.

Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản đ  đảm bảo nghĩa vụ của bên vay và bên thế chấp tài sản nếu xảy ra tranh chấp thì người có quyền sở hữu chung đối với tài sản này, Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định tại khoản 12 Điều 26; khoản 9 Điều 27 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 74 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

- Ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ có nghĩa vụ nộp 77.958.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền 37.800.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp (biên lai thu tiền số 0000982 ngày 23/5/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên).

- Ngân hàng thương mại cổ phần Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Ông Lê Đăng N và bà Lê Thị Hồng Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án  theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2017/KDTM-ST ngày 29/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:53/2017/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về