TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 53/2017/HSST NGÀY 06/09/2017 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 06 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc,tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2017/HSST ngày 28/7/2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2017/HSST-QĐ ngày 23/8/2017, đối với các bị cáo:
MAI VĂN T – Sinh năm: 1987; Nơi sinh: Đồng Nai; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn 2, xã Đô, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: Thôn 3, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 3/12; Tiền án, tiền sự: Không; Cha: Mai Xuân T, sinh năm 1954; Mẹ: Vũ Thị S, sinh năm 1959; Cả hai trú tại thôn Đ, xã ĐM, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo T là con thứ ba; Vợ: K’ Thị H, sinh năm 1989, hiện trú tại thôn 3, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2009. Bi cáo bị bắt ngày 16/5/2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hàm Thuận Bắc. Bị cáo có mặt.
MAI VĂN T1 - Sinh năm: 1989; Nơi sinh: Đồng Nai; Nơi cư trú: Thôn 1, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 5/12; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 29/12/2008, Mai Văn T1 bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/3/2009, đã xóa án tích; Cha: Mai Xuân T, sinh năm 1954; Mẹ: Vũ Thị S, sinh năm 1959; Cả hai hiện trú tại thôn Đ, xã ĐM, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo T1 là con thứ tư; Vợ: Rồng Thị H, sinh năm 1996, hiện trú tại thôn 1, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Có 01 con, sinh năm 2016. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú số 36 ngày 06/7/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Hàm Thuận Bắc. Bị cáo có mặt.
THÔNG MINH T - Sinh năm: 1996; Nơi sinh: xã Đ, huyện H, Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Chăm; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Bà la môn; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 10/12; Tiền án, tiền sự: Không; Cha: Thông Minh T1 (không rõ năm sinh, địa chỉ); Mẹ: Thông Thị D, sinh năm 1964, hiện trú tại thôn 2, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo Thông Minh T là con thứ tư. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú số 35 ngày 06/7/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Hàm Thuận Bắc. Bị cáo có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Anh Lê Văn D – Sinh năm 1991 (có mặt).
Nơi cư trú: Khu phố L, thị trấn M, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
2/ Anh Nguyễn Hữu L – Sinh năm 1995 (vắng mặt).
Nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ ngày 07/11/2015, Mai Văn T rủ em ruột là Mai Văn T1, K’ Văn D và Thông Minh T vào suối Sa Loun thuộc Tiểu khu 204 là rừng sản xuất, lâm phận do Ban quản lý rừng phòng hộ Đông Giang quản lý, mỗi người dùng xe mô tô chở gỗ trái phép, tất cả đồng ý. Đến nơi, Mai Văn T dẫn tất cả xuống suối Sa Loun đưa 03 hộp gỗ Sắn me lên bờ và đưa 01 hộp gỗ lên xe của Thông Minh T, dùng dây cao su chằng buộc lại chạy lên trước. Lúc này Lê Văn D là cán bộ của Trạm La Ngà thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ Đông Giang cùng K’ Văn T, K’ Văn T1 và K’ Văn T2 là những hộ nhận khoán bảo vệ rừng đang trực chốt Ma Leo ở gần đó tuần tra phát hiện Thông Minh T điều khiển xe mô tô chở 01 hộp gỗ từ đường mòn hướng dưới suối Sa Loun lên nên yêu cầu dừng xe đưa tang vật, phương tiện về Trạm La Ngà giải quyết. Thông Minh T năn nỉ xin cho chở gỗ đi nhưng Lê Văn D không cho thì gọi Mai Văn T đang đưa gỗ lên xe mô tô của K’ Văn D ở dưới bờ suối lên tiếp tục xin nhưng Lê Văn D kiên quyết không cho, Mai Văn T nói: “Anh em mà làm gì bóp chặt giữ vậy, mấy ông làm việc ăn lương Nhà nước rồi nên tụi tui làm để kiếm tiền”, Lê Văn D nói: “Chính vì ăn lương Nhà nước nên tôi phải làm”, Mai Văn T chửi: “Đ.M mấy thằng mày làm gì mà căng vậy?”. Lúc này Mai Văn T1 từ bờ suối đi lên thấy Mai Văn T đang xin cho chở gỗ đi nhưng Lê Văn D không cho thì chửi: “ Đ.M hồi nãy giờ anh tôi nói nhỏ nhẹ với mấy ông làm gì mà khó khăn, chỗ quen biết chứ lạ gì đâu”, còn Thông Minh T thì đe dọa: “Mấy thằng này ra làng là gặp đâu đánh đó”. Thấy Lê Văn D kiên quyết không cho, Mai Văn T nói với cả bọn: “Đ.M đi về lấy búa vào chặt hết số gỗ này luôn tụi mày”. Đồng thời, Mai Văn T mở dây, hất hộp gỗ xuống xe, xuống bờ suối bảo K’ Văn D hất lóng gỗ trên xe xuống đất, mỗi tên điều khiển 01 xe mô tô bỏ về.
Sau khi nhóm của Mai Văn T bỏ về, Lê Văn D tiếp tục kiểm tra theo đường mòn xuống suối Sa Loun, phát thiện thêm 02 hộp gỗ nằm trên đường mòn, gần bờ suối và 02 hộp gỗ còn dưới suối thì điện thoại báo cho Nguyễn Hữu L và Trương Minh D đều là cán bộ Trạm La Ngà vào hỗ trợ để đưa số gỗ trên về Trạm. Đối với Mai Văn T, ngay sau khi về nhà đã lấy 01 cây búa chặt cây, cán bằng gỗ dài khoảng 50cm, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 10cm đưa cho Mai Văn T1 cầm, rồi điều kiển xe mô tô biển số 60V6 -7863 chở Mai Văn T1 và Thông Minh T quay lại nơi bị bắt giữ gỗ, riêng K’ Văn D không tham gia.
Khi Nguyễn Hữu L điều khiển mô tô chở 01 gỗ vi phạm bị bắt, K’ Văn T ngồi sau ôm chạy về Trạm La Ngà được khoảng 600m thì gặp Mai Văn T chở Mai Văn T1 và Thông Minh T chạy vào chặn đầu xe, Mai Văn T nói: “Làm gì mà căng giữ vậy?” Nguyễn Hữu L trả lời: “Cứ chở về trạm rồi mai tính”. Thấy Mai Văn T tiếp tục chở Mai Văn T1 và Thông Minh T chạy vào nơi bắt gỗ, Nguyễn Hữu L và K’ Văn T bỏ hộp gỗ xuống đường, chở nhau quay lại để hỗ trợ cho Lê Văn D, Trương Minh D, K’ Văn T1 và K’ Văn T2 đang mở rộng hiện trường. Mai Văn T chở Mai Văn T1 và Thông Minh T đến Ngã ba gần nơi bị bắt gỗ thì dừng xe, tất cả theo đường mòn xuống nơi tập kết gỗ, Mai Văn T nhặt 01 đoạn cây, bẻ làm 02 đoạn và đưa cho Thông Minh T 01 đoạn. Đến gần bờ suối, nơi có 02 hộp gỗ thấy Lê Văn D từ dưới suối Sa Loun lên, Mai Văn T chửi: “Đ.M mấy thằng mày bắt gỗ tao”, Mai Văn T1 và Thông Minh T dùng búa chặt phá 01 hộp gỗ trên bờ. Mai Văn T tiếp tục đe dọa: “Mày tin tao đánh mày không?” Lê Văn D trả lời: “Anh nhắm đánh được thì anh đánh”, lập tức Mai Văn T dùng đoạn cây đánh từ trên xuống, hướng vào người Lê Văn D thì Nguyễn Hữu L có mặt kịp thời dùng tay trái chống đỡ trúng mu bàn tay làm gãy đoạn cây, Lê Văn D bị đoạn cây trúng vào vai trái, đoạn cây bị gãy văng trúng miệng Nguyễn Hữu L bị thương chảy máu. Trên đường chở nhau đi khỏi hiện trường, Mai Văn T, Mai Văn T1 và Thông Minh T đã chở 01 hộp gỗ do Nguyễn Hữu L và K’ Văn T để ven đường trước đó khi quay lại hỗ trợ cho Lê Văn D về nhà Mai Văn T cấtgiấu.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Mai Văn T đã lẫn trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Hàm Thuận Bắc ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can và ra Quyết định truy nã. Đến ngày 16/5/2017, Mai Văn T bị bắt theo Quyết định truy nã.
Tại bản cáo trạng số 52/QĐ-KSĐT-VKS-HS ngày 28/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố Mai Văn T về tội “Chống người thi hành công vụ” theo Điểm c, d Khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự; truy tố Mai Văn T1, Thông Minh T về tội “Chống người thi hành công vụ” theo Điểm d Khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các bị cáo Mai Văn T, Mai Văn T1 và Thông Minh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng Điểm c, d Khoản 2 Điều 257; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật Hình sự. Phạt Mai Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù
Áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 257; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật Hình sự. Phạt Mai Văn T1 từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù Phạt Thông Minh T 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn cây dài 55cm, đường kính 3,50cm; 01 đoạn cây dài 80cm, đường kính 4cm và 05 mảnh gỗ từ hộp gỗ bị chặt, dài từ 30 – 53 cm, chiều rộng từ 2 – 9cm;
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 04 hộp gỗ chủng loại Sắn me, kích thước: (0,20 x 0,20 x 1,3)m; (0,20 x 0,20 x 1,6)m; (0,20 x 0,20 x 2)m; (0,18 x 0,18 x1,6)m có nhiều dấu vết bị chặt
Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo Mai Văn T; Mai Văn T1 và Thông Minh T: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn T, Mai Văn T1 và Thông Minh T khai nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Vào khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 07/11/2015, Mai Văn T rủ em ruột là Mai Văn T1, Thông Minh T và K’ Văn D vào suối Sa Loun thuộc Tiểu khu 204 lâm phận do Ban quản lý rừng phòng hộ Đông Giang quản lý dùng xe mô-tô biển số 60V6 –7863 (xe do chị ruột là Mai Thị D làm chủ sở hữu) chở gỗ trái phép thì bị lực lượng quản lý và bảo vệ rừng Trạm La Ngà phát hiện, bắt giữ. Mai Văn T và đồng bọn nhiều lần xin được chở gỗ đi nhưng Lê Văn D kiên quyết không cho, yêu cầu đưa tang vật, phương tiện vi phạm về Trạm La Ngà giải quyết thì bị chửi bới, đe dọa. Mai Văn T đã lôi kéo, xúi dục và kích động Mai Văn T1 và Thông Minh T dùng búa chặt phá gỗ bị bắt giữ. Mai Văn T tiếp tục đe dọa, dùng cây đánh trúng Lê Văn D vào vai trái, Nguyễn Hữu L bị trúng mu bàn tay trái, miệng, gây thương tích nhẹ. Mai Văn T, Mai Văn T1 và Thông Minh T đã chở 01 hộp Sắn me bị bắt giữ ban đầu đi khỏi hiện trường.
Hành vi trên của bị cáo Mai Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” được quy định tại Điểm c, d Khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự. Hành vi của các bị cáo Mai Văn T1 và Thông Minh T đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” được quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, khôngoan.
[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo đã dùng xe mô-tô chở gỗ trái phép sau bị phát hiện thì chửi bới, đe dọa lực lượng quản lý và bảo vệ rừng Trạm La Ngà. Đối với Mai Văn T có hành vi lôi kéo, xúi giục và kích động Mai Văn T1, Thông Minh T dùng búa chặt hư hỏng gỗ bị tạm giữ gây cản trở, khó khăn cho những người thực thi nhiệm vụ và đã tẩu táng tang vật khỏi hiện trường, ngoài ra Mai Văn T còn đe dọa, dùng vũ lực đánh lực lượng có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng. Trong quá trình điều tra bị cáo Mai Văn T đã bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý vụ án. Mai Văn T1 và Thông Minh T khi được Mai Văn T rủ rê đi vận chuyển gỗ là đồng ý tham gia ngay cùng giúp sức với Mai Văn T tẩu táng gỗ, dùng búa chặt nhiều nhát vào các khúc gỗ bị bắt và có lời lẽ xúc phạm đến lực lượng bảo vệ rừng là đồng phạm với vai trò giúp sức rất tích cực. Tại Tòa, các bị cáo đều xác định rằng biết rõ Lê Văn D, Nguyễn Hữu L là Cán bộ của Trạm La Ngà thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ Đông Giang vì nhà của các bị cáo sát trạm La Ngà. Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện sự xem thường kỷ cương pháp luật, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, làm giảm hiệu lực quản lý xã hội của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, gây ảnh hưởng đến nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng của Nhà nước nhất là cho những người đang thực hiện nhiệm vụ. Do đó phải xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc, cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành công dân tốt và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Không có
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
[6] Về xử lý vật chứng:
01 đoạn cây dài 55cm, đường kính 3,50cm; 01 đoạn cây dài 80cm, đường kính 4cm là công cụ thực hiện tội phạm và 05 mảnh gỗ từ hộp gỗ bị chặt, dài từ 30 – 53 cm, chiều rộng từ 2 – 9cm không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 04 hộp gỗ chủng loại Sắn me, kích thước: (0,20 x 0,20 x 1,3)m; (0,20 x 0,20 x 1,6)m; (0,20 x 0,20 x 2)m; (0,18 x 0,18 x1,6)m có nhiều dấu vết bị chặt là do người phạm tội chiếm đoạt trái phép nên tịch thu sung quỹ, hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hàm Thuận Bắc theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2017.
[7] Về những vấn đề khác:
Lê Văn D và Nguyễn Hữu L bị thương tích nhẹ, tự điều trị, không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên Tòa không xem xét giải quyết.
Đối với 01 đoạn cây dài khoảng 80cm; 01 cây búa chặt cây, cán dài khoảng50cm, lưỡi búa bằng kim loại, dài khoảng 10cm và 01 hộp gỗ, chủng loại Sắn me, kích thước (0,20 x 0,20 x 1,3)m. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc đã truy tìm nhưng không thu giữ được nên Tòa không xem xét giải quyết.
Đối với xe mô-tô biển số 60V6 – 7863, Mai Văn T dùng để chở đồng bọn, sau đó chở 01 hộp gỗ khỏi hiện trường của chị ruột là Mai Thị D- sinh năm 1985 trú tại ấp 3, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, do Mai Văn T tự ý sử dụng, Mai Thị D không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ là đúng quy định của pháp luật. Các bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Mai Văn T, Mai Văn T1 và Thông Minh T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng: Điểm c, d Khoản 2 Điều 257; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Mai Văn T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từngày 16/5/2017.
- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 257; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Mai Văn T1 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Xử phạt: Thông Minh T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng:
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn cây dài 55cm, đường kính 3,50cm; 01 đoạn cây dài 80cm, đường kính 4cm và 05 mảnh gỗ từ hộp gỗ bị chặt, dài từ 30 – 53 cm, chiều rộng từ 2 – 9cm;
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 04 hộp gỗ chủng loại Sắn me, kích thước: (0,20 x 0,20 x 1,3)m; (0,20 x 0,20 x 1,6)m; (0,20 x 0,20 x 2)m; (0,18 x 0,18 x1,6)m có nhiều dấu vết bị chặt. Tất cả hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hàm Thuận Bắc theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2017.
3. Về án phí:
Áp dụng: Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Mai Văn T, Mai Văn T1 và Thông Minh T mỗi người phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án:
Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/9/2017). Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.
Bản án 53/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 53/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về