Bản án 531/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị M và anh Đ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 531/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ M VÀ ANH Đ

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện c xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 393/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 251/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị M, sinh năm 1996 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: tổ 45, ấp Chánh Hung, xã BL, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1983 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp Bình Phước, xã BC, huyện C, tỉnh An Giang.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 14 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị M trình bày:

1. Về hôn nhân: Vợ chồng quen biết vào năm 2018 vợ chồng anh chị chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn chung sống lâu dài với nhau được nữa, vợ chồng ly thân từ ngày 31/6/2020 đến nay. Nay tình cảm không còn xin được ly hôn.

2. Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Gia Huy, sinh ngày 21/5/2019, hiện con chung đang sống chung với chị M, chị M yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị M yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.

Bị đơn Phạm Văn Đ trình bày:

Về hôn nhân: Thống nhất lời trình bày của chị M về quá trình đi đến hôn nhân, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC. Ban đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ thường xuyên về nhà cha mẹ vợ (một tuần đi 4 ngày), không quan tâm đến sinh hoạt của anh. Tuy nhiên, anh cho rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng không lớn, anh còn thương vợ thương con, anh yêu cầu được đoàn tụ gia đình.

Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Gia Huy như chị M trình bày. Hiện cháu Huy còn nhỏ nên do chị M chăm sóc nuôi dưỡng, anh không đồng ý để chị M nuôi dưỡng một mình, anh yêu cầu vợ chồng cùng chăm sóc nuôi dưỡng vì cháu Huy còn nhỏ.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Đ. Anh Đ không đồng ý.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định.

Về nội dung: Đề nghị cho chị M ly hôn anh Đ, do anh chị ly thân đã lâu, cho thấy anh chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được.

Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Gia Huy, sinh ngày 21/5/2019. Hiện cháu Huy đang do chị M chăm sóc nuôi dưỡng. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Huy, anh Đ không đồng ý. Xét thấy cháu Huy chưa được 36 tháng tuổi và hiện đang do chị Muôi chăm sóc nuôi dưỡng, để đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ trong 03 năm đầu đời cần giao cháu Huy cho chị M chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Huy cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể của các đương sự; Photo giấy chứng nhận kết hôn; Photo giấy khai sinh của cháu Huy; Biên bản xác minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức: Tranh chấp của các đương sự là về ly hôn, về nuôi con chung, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện c tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị M và anh Đ chung sống với nhau từ năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC, huyện C, tỉnh An Giang, phù hợp quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, là hôn nhân hợp pháp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chị M khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Đ với lý do: Anh và chị có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng đã ly thân. Anh Đ không đồng ý ly hôn vì cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không lớn, còn thương vợ, thương con muốn đoàn tụ gia đình, xây dựng lại gia đình hạnh phúc.

Tòa án đã tiến hành hòa giải động viên để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị M vẫn giữ yêu cầu ly hôn, anh Đ giữ quan điểm không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy: Mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ gắn bó lâu dài và bền vững, vợ chồng phải thương yêu chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, cùng chung tay nuôi dưỡng chăm sóc con chung, vợ chồng phải thương yêu, tôn trọng, đối xử lịch thiệp văn minh với nhau nhưng anh chị thường xuyên cãi vã, gây mất tình cảm vợ chồng, dẫn đến vợ chồng đã ly thân. Anh, chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên chị M yêu cầu yêu cầu ly hôn là có cơ sở. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M.

[2.2] về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Gia Huy, sinh ngày 21/5/2019. Hiện cháu Huy đang do chị M chăm sóc nuôi dưỡng. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Huy, anh Đ không đồng ý. Xét thấy cháu Huy chưa được 36 tháng tuổi và hiện đang do chị Muôi chăm sóc nuôi dưỡng, để đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ trong 03 năm đầu đời cần giao cháu Huy cho chị M được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Huy cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng.

Anh Phạm Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003539 ngày 23 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Lê Thị M được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Chị M và anh Đ có 01 con chung tên Phạm Gia Huy, sinh ngày 21/5/2019, hiện cháu Huy do chị M đang chăm sóc nuôi dưỡng.

2.2. Giao cháu Phạm Gia Huy, sinh ngày 21/5/2019 cho chị Lê Thị M được tiếp tục nuôi dưỡng.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003539 ngày 23 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 531/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị M và anh Đ

Số hiệu:531/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về