TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 528/2017/HS-PT NGÀY 25/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tiến hành xét xử vụ án hình sự thụ lý số 156/2016/TLPT- HS ngày 24 tháng 02 năm 2016 đối với bị cáo Giàng A S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đối với bản án hình sự sơ thẩm số 21/2016/HSST ngày 14 tháng 01 năm 2016 của Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu.
* Bị cáo bị kháng nghị:
Giàng A S - Sinh năm: 1975; Nơi ĐKTT: Bản T, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ; dân tộc: Mông; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Không biết chữ; tiền án, tiền sự: Không; con ông: Giàng Vả S (đã chết) và bà: Vàng Thị S (đã chết); vợ: Ly Thị N - Sinh năm: 1972; bị cáo có 04 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2013; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/10/2015 đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu và bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 03/10/2015 Giàng A S từ nhà ở Bản T, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ đi lên nương của gia đình để gặt lúa. Khi đi S mang theo 10.000.000VNĐ là tiền gia đình S bán lợn, gà mà có. Trong lúc đi trên đường mòn trong rừng thuộc khu vực Bản T thì S gặp một người đàn ông dân tộc Mông quốc tịch Lào, qua giới thiệu thì S biết người đàn ông này tên là Vàng A L, địa chỉ cụ thể của L ở đâu S không biết. Gặp S, L hỏi S có mua Hêrôin không thì L bán rẻ cho vì L đang mang Hêrôin theo người để bán. Do có tiền mang theo người và biết lợi nhuận từ việc bán Hêrôin nên S đồng ý mua và bảo với L bán cho S 10.000.000VNĐ, L nhất trí. S lấy 10.000.000VNĐ mang theo người đưa cho L và L đưa cho S 01 gói Hêrôin được gói bằng nilon màu trắng cho S, lúc L bán Hêrôin cho S chỉ có L và S biết. Bán được gói Hêrôin cho S xong L đi về luôn, còn S cầm gói Hêrôin mua được đi về nhà và cất giấu ở trong rừng cách nhà S khoảng 100m, không cho ai biết.
Đến khoảng 14 giờ ngày 17/10/2015, S từ nhà ở Bản T đi ra chỗ cất giấu gói Hêrôin mà S mua của L và lấy gói Hêrôin chia thành 04 gói nhỏ, từng gói bọc bằng nilon màu trắng. Sau đó, S cất giấu trong hậu môn của mình đi đến bến xe khách thành phố Đ rồi lên xe khách Đ - Lào Cai mang BKS: A để đi Lai Châu, sau đó sẽ đón xe đi tiếp sang LPK, xã N, huyện M, tỉnh Yên Bái để bán Hêrôin kiếm lời. Khi xe khách đến đi đến khu vực đèo G thuộc địa phận xã G, huyện Đ, tỉnh Lai Châu thì bị lực lượng Công an tỉnh Lai Châu yêu cầu dừng xe khách kiểm tra và đưa S về trụ sở Công an tỉnh Lai Châu mời người chứng kiến để kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra S đã tự giác móc trong hậu môn 04 gói Hêrôin mà S cất giấu.
Tại bản án hình sự số số 21/2016/HSST ngày 14 tháng 01 năm 2016 của Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Giàng A S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”
Áp dụng điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm h khoản 2 điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Giàng A S 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt là ngày 18/10/2015.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/01/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu có kháng nghị số 01/QĐ-KNPT, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chuyển khung hình phạt từ khoản 2 lên khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Giàng A S.
Tại phiên tòa, bị cáo Giàng A S đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy được nêu trên. Bị cáo xác định không có kháng cáo, chấp hành theo bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội giữ nguyên kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị, áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Giàng A S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo Giàng A S phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của người làm chứng; bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[2]. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 02 giờ ngày 18/10/2015, Giàng A S có hành vi vận chuyển 04 gói ma túy để bán kiếm lời. Đến Km 12, Quốc lộ 4D thuộc địa phận xã G, huyện Đ, tỉnh Lai Châu thì bị cáo Tổ công tác Phòng PC 47 Công an tỉnh Lai Châu phối hợp với Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm 04 gói ma túy có tổng trọng lượng 66,06gam.
[3]. Tại Kết luận giám định số 493/GĐ-KTHS, ngày 29/10/2015 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu đã xác định: 01 mẫu chất bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ của Giàng A S gửi đến giám định là chất ma túy, có chứa thành phần của Heroine. Hàm lượng phần trăm Heroine trong mẫu là 20,1845%.
[4]. Do có hành vi phạm tội nên trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Giàng A S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[5]. Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu về việc áp dụng khung hình phạt và mức hình phạt đối với bị cáo Giàng A S, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào kết quả giám định hàm lượng phần trăm Hêrôin được nêu trên để xác định trọng lượng Hêrôin nguyên chất như sau: 66,06gam x 20,18% = 13,33gam. Trên cơ sở đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khung hình phạt theo điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là đối với bị cáo Giàng A S là có căn cứ, đúng pháp luật.
[6]. Xét mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo, thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm chính sách quản lý đặc biệt của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự chung. Do đó, cần được xử lý nghiêm trước pháp luật.
[7]. Bị cáo Giàng A S đã bị xử phạt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy vào năm 2006, tính đến thời điểm bị cáo phạm tội mới thì đã được xóa án tích. Tuy nhiên, bị cáo được xác định là người có nhân thân không tốt. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[8]. Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm tù là tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo. Do đó, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[9]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[10]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A S 12 (mười hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/10/2015.
[2]. Bị cáo Giàng A S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 528/2017/HS-PT ngày 25/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 528/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về