TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 523/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 11 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 949/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đồng Ngọc A, sinh năm 1973;
Địa chỉ: 1225/21 Phạm Thế Hiển, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh
Bị đơn: Ông Trần Ngọc B, sinh năm 1972;
Cư trú tại: 1293/3 Phạm Thế Hiển, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/5/2018 cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ nguyên đơn bà Đồng Ngọc A trình bày:
Bà A và ông Trần Ngọc B tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn vào ngày 27/12/2002 tại Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 5 năm 2016 do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, vợ chồng không tôn trọng, yêu thương nhau nên thường xuyên cải vã, gây gỗ với nhau khiến cho đời sống hôn nhân luôn căng thẳng, ngột ngạt nên cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2016 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, không thể duy trì cuộc hôn nhân nên Bà A yêu cầu được ly hôn với ông Trần Ngọc B.
- Về nuôi con chung: Bà Đồng Ngọc A xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung tên Trần Đồng Gia H, sinh ngày 14/10/2003 và Trần Đồng Bảo H, sinh ngày 01/11/2009 hiện đang sinh sống cùng Bà A tại địa chỉ 1225/21 Phạm Thế Hiển, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra không còn con chung nào khác. Bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 (hai) con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đồng Ngọc A xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đối với bị đơn ông Trần Ngọc B đến Tòa án để tự khai, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của Bà A nên Tòa án không thể tiến hành thu thập được lời khai của ông B và không hòa giải được.
Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Đồng Ngọc A có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; Bị đơn ông Trần Ngọc B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do ý kiến:
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu - Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi xét xử theo quy định pháp luật tố tụng dân sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn bà Đồng Ngọc A có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt Bà A.
Bị đơn ông Trần Ngọc B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mà vẫn vắng mặt. Do vậy, theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Ngọc B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng ông B vắng mặt không có lý do. Do vậy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt ông B.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét đơn yêu cầu ly hôn của bà Đồng Ngọc A thì đây là tranh chấp ly hôn theo yêu cầu một bên, do bị đơn ông Trần Ngọc B hiện cư trú tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về các yêu cầu của đương sự:
Xét thấy, bà Đồng Ngọc A và ông Trần Ngọc B tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 313, quyển số 02/2002 ngày 27/12/2002 ) nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận phù hợp với Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Đồng Ngọc A cho rằng: Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 5 năm 2016 do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, vợ chồng không tôn trọng, yêu thương nhau nên thường xuyên cải vã, gây gỗ với nhau khiến cho đời sống hôn nhân luôn căng thẳng, ngột ngạt nên cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2016 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, không thể duy trì cuộc sống hôn nhân nên Bà A yêu cầu được ly hôn với ông Trần Ngọc B.
Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Trần Ngọc B không đến Tòa để trình bày ý kiến tự khai, tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng ông B vẫn vắng mặt mà không có lý do và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của Bà A. Điều này thể hiện ông B đã từ bỏ quyền lợi của mình, không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng trong thời gian dài, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ cần chấp nhận.
Về nuôi con chung: Bà Đồng Ngọc A xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung tên là Trần Đồng Gia H, sinh ngày 14/10/2003 và Trần Đồng Bảo H, sinh ngày 01/11/2009, ngoài ra không còn con chung nào khác. Bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung vì hiện trẻ Trần Đồng Gia H và Trần Đồng Bảo H đang sinh sống cùng Bà A tại địa chỉ 1225/21 Phạm Thế Hiển, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (có xác nhận của Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh); Bà A sản xuất buôn bán hủ tíu tại địa chỉ số 1225/21 Phạm Thế Hiển, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh thu nhập khoảng 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)/tháng nên đủ điều kiện để nuôi con không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.
Hội đồng xét xử xét thấy việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con trẻ, Bà A có nơi cư trú và thu nhập ổn định nên đủ điều kiện nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi xét xử ông B không có ý kiến phản hồi về yêu cầu nuôi con của Bà A. Trẻ Trần Đồng Gia H và Trần Đồng Bảo H đang sống cùng Bà A và có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng với mẹ. Để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung, việc giao con chung cho Bà A tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông B cho đến khi Bà A có yêu cầu là phù hợp. Ông Trần Ngọc B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền ngăn cản quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình. Nếu sau khi ly hôn Bà A và ông B có yêu cầu tranh chấp về người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con thì giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đồng Ngọc A xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
Ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ để chấp nhận.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;
-Căn cứ điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đồng Ngọc A về việc xin ly hôn với ông Trần Ngọc B.
- Về hôn nhân: Bà Đồng Ngọc A được ly hôn với ông Trần Ngọc B (theo giấy chứng nhận kết hôn số 313 , quyển số: 02/2002 của Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/12/2002).
- Về nuôi con chung: Giao 02 (hai) con chung tên là Trần Đồng Gia H và Trần Đồng Bảo H cho bà Đồng Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng cho con đối với ông Trần Ngọc B cho đến khi Bà A có yêu cầu.
Người không trực tiếp nuôi con được quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đồng Ngọc A xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Đồng Ngọc A phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai số 0018145 ngày 16/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà A đã nộp đủ án phí.
Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Về Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 523/2019/HNGĐ-ST ngày 10/06/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 523/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về