Bản án 522/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 522/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 516/2020/HSST 29/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 544/2020/QDXXST - HS ngày 10/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 10 tháng 5 năm 1987 Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam;

Nơi ĐKHKTT: Tổ 09, phường Phùng Chí Kiên, TP Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1962; Con bà: Hấu Thị L sinh năm 1964; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Lý Thị D, sinh năm 1989; Có 01 con, sinh năm 2012.

- Tiền án: 01 – Tại bản án số 66/2013/HSST ngày 16/9/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” . T chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung.

- Tiền sự: 01 – Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 05/2020/QĐ- TA ngày 03 tháng 06 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đối với Nguyễn Văn T, thời hạn 18 tháng.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2020). Có mặt tại phiên tòa * Người chứng kiến :

1. Anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 1987(Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 18, phường Quang Trung, TP. TH, tỉnh TH.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 00 phút ngày 21/7/2020, tổ công tác Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực Cổng số 3 Bệnh viện Trưng ương TH thuộc tổ 08 phường Phan Đình Phùng, thành phố TH thì phát hiện 01 người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận kiểm tra thì người đàn ông trên khai tên là Nguyễn Văn T và tự giác láy trong lòng bàn tay trái ra giao nộp 02 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (T khai là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với T và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng trong 02 gói giấy màu trắng thu giữ của T có khối lượng là: 0,154 gam, niêm phong kí hiệu T gửi giám định .

Tại Kết luận giám định số 4856/C09/TT2 ngày 30/7/2020 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong niêm phong ký hiệu T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine.

Tại Kết luận giám định số 1119/KL-KTHS ngày 01/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Khối lượng chất bột màu trắng thu giữ ban đầu trong phong bì ký hiệu T là: 0,154 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 21/7/2020, T bắt xe taxi một mình đi từ khu vực chợ Đồng Quang đến khu vực cầu Mỏ Bạch thuộc phường Quang Vinh, thành phố TH để tìm mua ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến nơi, T gặp và mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói gói giấy màu trắng bên trong chứa Heroine với giá 200.000đ. Mua xong, T cầm 02 gói Heroine trong lòng bàn tay trái mang đi tìm nơi sử dụng. Khi T đi đến khu vực cổng số 3 Bệnh viện Trung ương TH thì bị tổ công tác Công an phường Phan Đình Phùng phát hiện, yêu cầu kiểm tra, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng thu giữ như nêu trên.

Lời khai nhận của Nguyễn Văn T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong kí hiệu 4856/ 09-TT2 bên trong chứa ma túy. Hiện vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 522/CT-VKSTPTN, ngày 27/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, tỉnh TH đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Kết thúc phần xét hỏi, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TH giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS; Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy : 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: 4856/ 09- TT2 bên trong chứa ma túy.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 12, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] . Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do nghiện ma túy, Hồi 10 giờ 30 phút, ngày 21/7/2020, tại khu vực tổ 8, phường Phan Đình Phùng, thành phố TH, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,154 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi của nêu trên của Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tội phạm và hình phạt của Nguyễn Văn T được quy định tại đim c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine.......có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam”.

4] . Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma túy là mặt hàng cấm do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết nhằm răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo có 01 tiền án: Tại bản án số 66/2013/HSST ngày 16/9/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung, chưa được xóa án tích. Có 01 tiền sự: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 05/2020/QĐ- TA ngày 03 tháng 06 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đối với Nguyễn Văn T, thời hạn 18 tháng, bị cáo chưa chấp hành quyết định thì bỏ trốn. Bị cáo đã không lấy đó làm bài học cho bản thân, tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Đối với bản án số 66/2013/HSST ngày 16/9/2013 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp “ Tái phạm” nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi về hành vi của mình nên hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện lượng khoan hồng của Nhà nước đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp và cần được chấp nhận [6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước, nhưng qua xác minh bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì giá trị, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu 4856/C09 – TT2 bên trong chứa ma túy.

[8]. Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ Nguyễn Văn T khai mua của một nam thanh niên không quen biết không rõ lai lịch, địa chỉ. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở làm rõ để xử lý.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp [10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T : 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/7/2020 . Không áp dụng hình phạt bổ sung đi với bị cáo Áp dụng Điều 329 BLTTHS Quyết đnh tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án đ đm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu 4856/C09- TT2 bên trong chứa ma túy, mặt sau phong bì có 03 dấu tròn của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh TH và có chữ ký của Lý Văn Toán, Đặng Thị Thủy.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 36 ngày 23/10/2020)

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 522/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:522/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về