TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 49/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:
Trần Bảo M sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn Đại Thắng 4, xã P, huyện T, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S và bà Phan Thị C ; vợ là Hồ Thị N và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.
- Người đại diện theo pháp luật của bị hại (Bà Đỗ Thị A, sinh năm 1951;địa chỉ: Xóm 5, xã Giao T, huyện G, tỉnh Nam Định; đã chết):
Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1979; địa chỉ: Xóm 5, xã Giao T, huyện G, tỉnh Nam Định.
Anh Đỗ Văn T1, sinh năm 1981; địa chỉ: Xóm 5, xã Giao T, huyện G, tỉnh Nam Định.
Chị Đỗ Thị G, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện K, tỉnh H.
Chị Đỗ Thị Hà, sinh năm 1990; địa chỉ: Xóm 5, xã Giao T, huyện G, tỉnh Nam Định.
Anh Đỗ Văn D, sinh năm 1993; địa chỉ: Xóm 5, xã Giao T, huyện G , tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.
(Anh T, chị H, chị G ủy quyền cho anh D).
- Người làm chứng:
Anh Nguyễn Thành Tr; “vắng mặt”.
Anh Mai Văn H; “vắng mặt”.
Anh Nguyễn Ngọc C; “vắng mặt”. Anh Đinh Văn Th; “vắng mặt”. Chị Lò Thị M; “vắng mặt”..
Chị Hồ Thị N; “có mặt”.
Anh Phạm Văn N; “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đượctóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 26-6-2020, Trần Bảo M điều khiển xe ô tô taxi Mai Linh BKS: 18A-144.98 lưu thông trên trục tỉnh lộ 489B theo hướng từ huyện Hải Hậu sang thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Trên xe chở các hành khách gồm: anh Mai Văn H và cháu Mai Đức M là con của anh H; anh Nguyễn Thành Tr và cháu Nguyễn Hà L là con của anh Tr và anh Nguyễn Ngọc Ch. Khi đi đến gần cầu Thức Hóa, M thấy trên mặt cầu có kẻ vạch sơn nét liền màu vàng, mặc dù biết rõ là không được điều khiển xe đè vạch, lấn đường ngược chiều nhưng do đường vắng nên M lái xe vượt quá tốc độ cho phép (thời điểm 05 giây trước khi M đạp phanh khi xảy ra tại nạn tốc độ xe lần lượt là 93,87,85,83,80 km/h theo dữ liệu thiết bị GPS trên xe) và đi lấn sang làn đường bên trái theo chiều đi khoảng 0,5m. Khi xuống dốc cầu về phía xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy, M biết là đến ngã tư giao nhau giữa đường 489B, đường đê sông Sò và đường đi vào bảo tàng Đông Quê, xã Giao Thịnh, quan sát thấy không có người hay phương tiện nào nên do chủ quan M vẫn giữ nguyên tốc độ và phần đường. Khi xe của M vừa xuống dốc cầu Thức Hóa thì bà Đỗ Thị A điều khiển xe máy điện, màu đen, không BKS đi từ mặt đê sông Sò xuống đường 489B và điều khiển xe qua đường. Do khoảng cách gần nên M đạp phanh, đánh hết lái sang trái đường để tránh xe của bà A nhưng đầu xe của M vẫn đâm thẳng vào bên trái xe máy điện của bà A, hất bà A lên nắp capo rồi ngã xuống đường. M xuống xe kiểm tra thì thấy bà A nằm bất động, nghĩ rằng bà A đã chết, sợ phải chịu trách nhiệm nên M đã điều khiển xe bỏ chạy về phía thị trấn Quất Lâm. Khi đến khu vực chợ Bến, xã Giao Phong, huyện Giao Thủy, M đã cho toàn bộ hành khánh trên xe xuống và tiếp tục điều khiển xe sang huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Sau đó do nhận thức hành vi của bản thân không thể trốn tránh được nên M đã điều khiển xe đến Công an huyện Xuân Trường để trình báo sự việc. Về phía bà A, sau tai nạn bị thương và đã tử vong trên đường đi cấp cứu.
Tiến hành khám nghiệm hiện trường (trong đó vị trí xe ô tô được dựng lại) thấy:
- Hiện trường tính hướng từ cầu Thức Hóa đi thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy. Lấy mép đường bên trái của tỉnh lộ 489B theo hướng như đã quy định trên là mép đường chuẩn.
- Xe ô tô BKS: 18A-144.98, nhãn hiệu KIA, số loại Morning, tình trạng dừng tại phần đường bên trái đường 489B, đầu xe hướng đi thị trấn Quất Lâm, đuôi xe hướng về phía cầu Thức Hóa. Điểm giữa mép ngoài mặt lăn bánh trước bên trái phần tiếp xúc với mặt đất cách mép đường chuẩn là 65cm. Điểm giữa mép ngoài mặt lăn của bánh sau bên trái phần tiếp xúc với mặt đất cách mép đường chuẩn là 80cm.
- Xe máy điện không rõ nhãn hiệu, màu sơn đen, không BKS, tình trạng đổ bên phải theo chiều xe trên mặt TL489B, đầu xe hướng vào lề đường bên phải, đuôi xe hướng thị trấn Quất Lâm sang trái đường và nằm tại phần đường bên phải trên mặt TL489B. Trục trước bên phải cách mép đường chuẩn là 5m85. Trục sau bên phải cách mép đường chuẩn là 4m70.
- Ngoài ra còn có một số vết cày, vết trượt, vết máu, vết loang để lại trên hiện trường.
Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 725/GĐKTHS ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận “Nạn nhân Đỗ Thị An, sinh năm 1949 chết do sốc đa chấn thương, mất máu cấp”.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ gồm: Thu giữ 01 xe máy điện không rõ nhãn hiệu, màu đen, không BKS; thu giữ của Trần Bảo M 01 xe ô tô, nhãn hiệu KIA, BKS 18A-144.98; thu tạp chất màu đen bám dính tại mặt ngoài lớp kính bảo vệ biển số phía trước của xe ô tô BKS 18A-144.98 (Ký hiệu: A1); thu tạp chất màu đen đỏ bám dính tại mặt ngoài ba đờ sốc trước của xe ô tô BKS 18A– 144.98 (Ký hiệu: A2); thu chất sơn màu đen tại mặt ngoài đầu chắn bùn bánh trước bên trái xe máy điện (ký hiệu: M1); thu tạp chất màu trắng tại ốp nhựa sườn bên trái sàn để chân người lái xe máy điện (ký hiệu: M2); thu 01 thẻ nhớ nhãn hiệu DSS loại 32GB của camera giám sát hành trình gắn tại xe ô tô BKS: 18A – 144.98;
01 bộ thiết bị giám sát hành trình Model TC3 màu đen và 01 thiết bị camera giám sát hành trình bằng nhựa kim loại màu đen, không rõ nhãn hiệu, kèm theo dây dẫn trên xe ô tô BKS: 18A-144.98.
Tại Bản kết luận giám định số 748/GĐKTHS ngày 23-7-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:
“Mẫu tạp chất màu đen bám dính tại mặt ngoài lớp kính bảo vệ biển số phía trước của xe ô tô BKS: 18A-144.98 được niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là sơn, cùng loại với mẫu sơn màu đen thu tại mặt ngoài đầu chắn bùn bánh trước bên trái xe máy điện được niêm phong ký hiệu M1 gửi làm mẫu so sánh.
Mẫu tạp chất màu đỏ đen bám dính tại mặt ngoài ba đờ sốc trước của xe ô tô BKS: 18A-144.98 được niêm phong ký hiệu A2 gửi giám định không đủ yếu tố giám định do lượng mẫu quá ít và lẫn nhiều tạp chất.
Mẫu tạp chất màu trắng bám dính trên miếng nhựa thu tại ốp sườn bên trái sàn để chân người lái của xe máy điện được niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định không đủ yếu tố giám định do lượng mẫu quá ít và lẫn nhiều tạp chất”.
Tại Bản kết luận giám định số 5370/C09-P6 ngày 14-12-2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
“- Đã phục hồi được 04 tệp video được lưu trữ trong thẻ nhớ;
- Không tìm thấy dữ liệu video thể hiện xảy ra vụ tai nạn.
- Tìm thấy dữ liệu hành trình (trong thời gian từ 14 giờ đến 15 giờ ngày 26/6/2020) và dữ liệu tốc độ (trong thời gian từ 14 giờ 15 phút đến 14 giờ 45 phút ngày 26/6/2020) của xe ô tô BKS: 18A – 144.98”.
Ngày 07-5-2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Giao Thủy đã định giá xác định tổng giá trị thiệt hại của xe máy điện không rõ nhãn hiệu, không BKS đã thu giữ là 430.000 đồng Bản Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 31-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Trần Bảo M về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Bảo M phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 260, các điểm b, s,t khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Trần Bảo M 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy các mẫu vật hoàn trả sau giám định trong phong bì niêm phong.
Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, đại diện bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án như: Biên bản hiện trường; lời khai của bị hại, người làm chứng; kết luận giám định; kết luận định giá tài sản...như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 14 giờ 30 ngày 26-6-2020, Trần Bảo M điều khiển xe ô tô BKS: 18A-144.98, nhãn hiệu KIA, số loại Morning trên trục TL489B, theo hướng từ huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đi thị trấn quất Lâm, huyện Giao Thủy. Khi đến khu vực cầu Thức Hóa, M đã điều khiển xe chạy vượt quá tốc độ cho phép (tốc độ của xe ô tô trên thiết bị GPS tại thời điểm 05 giây trước khi M đạp phanh khi xảy ra tại nạn lần lượt là 93,87,85,83,80 km/h), đi không đúng phần đường theo quy định, lấn một phần xe sang phần đường ngược chiều. Cùng lúc này, bà Đỗ Thị An đi từ đường đê sông Sò ra tỉnh lộ 489B và đi sang đường. M đạp phanh và đánh lái sang bên trái đường để tránh nhưng do khoảng cách quá gần, xe của M đâm vào bên trái xe bà A. Hậu quả bà A tử vong. Sau khi gây tai nạn sợ phải chịu trách nhiệm nên M đã điều khiển xe bỏ chạy về phía thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Hành vi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông đường bộvượt quá tốc độ cho phép và đi không đúng phần đường quy định, lấn một phần xe sang phần ngược chiều; khi chuẩn bị đến gần khu vực đường giao nhau đã chủ quan không giảm tốc độ gây ra tai nạn dẫn đến chết người của Trần Bảo M đã vi phạm khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng do chủ quan nên vẫn thực hiện xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe và thiệt hại tài sản đồng thời gây lo lắng cho nhân dân khi tham gia giao thông đường bộ. Hành vi của bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự; Sau khi gây tai nạn bị cáo đã bỏ trốn nên phải chịu tình tiết định khung “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm; gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt chính: Căn cứ các quy định của pháp luật, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù tuy nhiên chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà cho các bị cáo được hưởng án treo kèm theo thời gian thử thách bởi bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm …”, xét thấy không cần thiết phải cấm hành nghề lái xe trong một thời gian nhất định đối với bị cáo nên HĐX không áp dụng.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường chi phí mai táng và đền bù thiệt hại về tài sản cho gia đình bà Đỗ Thị An; gia đình bị hại, không có ý kiến gì nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.
[9] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:
Chiếc xe máy điện không rõ nhãn hiệu, không BKS đã thu giữ là tài sản hợp pháp của bà A, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho gia đình bà, gia đình bà A không có yêu cầu gì là phù hợp.
Đối với các mẫu vật thu giữ hoàn trả sau giám định, gia đình bị hại và bị cáo không có ý kiến gì nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe ô tô BKS 18A–144.98; 01 thẻ nhớ nhãn hiệu DSS loại 32GB của camera giám sát hành trình; 01 bộ thiết bị giám sát hành trình Model TC3 màu đen và 01 thiết bị camera giám sát hành trình bằng nhựa kim loại màu đen, không rõ nhãn hiệu, kèm theo dây dẫn đã thu giữ là tài sản hợp pháp của Trần Bảo M, Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản trên cho bị cáo là phù hợp.
[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Trần Bảo M phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; xử phạt bị cáo Trần Bảo M 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 5 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Trần Bảo M cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì hoàn trả mẫu vật sau giám định số 748/GĐKTHS ngày 26-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định (theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01-6-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Trần Bảo M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 52/2021/HS-ST ngày 30/06/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 52/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về